Bài 1: Báo cáo Chính phủ đánh giá kết quả phát triển kinh tế-xã hội

Năm 2014, Việt Nam đã hoàn thành tốt hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trong 14 chỉ tiêu chủ yếu, có 13 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, một chỉ tiêu xấp xỉ đạt kế hoạch (là tỷ lệ lao động qua đào tạo).
Bài 1: Báo cáo Chính phủ đánh giá kết quả phát triển kinh tế-xã hội ảnh 1Bốc dỡ hàng tại cảng Đình Vũ. (Ảnh: Hồng Kỳ/TTXVN)

Tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa 13, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã trình bày Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2014 và tình hình triển khai nhiệm vụ những tháng đầu năm 2015.

Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn Báo cáo: 

Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,

Thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các vị khách quý,

Thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Thưa đồng bào, cử tri cả nước,

Theo Chương trình kỳ họp, Chính phủ đã gửi đến các vị đại biểu Quốc hội các báo cáo về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Được sự ủy quyền của đồng chí Thủ tướng, tôi xin thay mặt Chính phủ trình bày một số nội dung chủ yếu về đánh giá bổ sung kết quả phát triển kinh tế-xã hội năm 2014; tình hình triển khai nhiệm vụ những tháng đầu năm 2015 và các trọng tâm chỉ đạo, điều hành trong những tháng tiếp theo, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã được Quốc hội thông qua. 

I. Đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2014

Tại Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa 13, Chính phủ đã báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2014. Trong những tháng cuối năm, Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các ngành, các cấp nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra. Tổng hợp kết quả thực hiện cả năm, Chính phủ xin báo cáo bổ sung như sau: 

Năm 2014, chúng ta đã hoàn thành tốt hầu hết các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra. Trong 14 chỉ tiêu chủ yếu, có 13 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, một chỉ tiêu xấp xỉ đạt kế hoạch (là tỷ lệ lao động qua đào tạo). So với số đã báo cáo Quốc hội, có 10 chỉ tiêu đạt tốt hơn và bốn chỉ tiêu không thay đổi.

Tăng trưởng GDP đạt 5,98%, vượt mục tiêu đề ra và cao nhất kể từ năm 2011. Kinh tế vĩ mô ổn định hơn; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 1,84%, thấp nhất trong nhiều năm qua. Mặt bằng lãi suất, tỷ lệ nợ xấu giảm; tỷ giá được duy trì ổn định; dự trữ ngoại hối tăng, đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Kim ngạch xuất khẩu tăng 13,7%; cán cân thương mại thặng dư năm thứ ba liên tiếp, xuất siêu 2,1 tỷ USD. 

An sinh xã hội được bảo đảm, đời sống của người dân được nâng lên; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,83%, riêng các huyện nghèo giảm 5,61%. Xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả. Cải cách tư pháp được tích cực triển khai. Cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh, môi trường đầu tư kinh doanh có bước cải thiện, năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng lên. Tai nạn giao thông giảm cả ba tiêu chí, lần đầu tiên sau nhiều năm số người chết giảm xuống dưới 9.000 người. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. An ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả tích cực.

Kết quả trên cho thấy những nhận định, đánh giá trong Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội cuối năm 2014 là phù hợp. Chúng ta đã đạt được mục tiêu tổng quát; nhiều chỉ tiêu kinh tế-xã hội chủ yếu đạt tốt hơn so với số đã báo cáo; hầu hết các chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch theo Nghị quyết Quốc hội đã đề ra; khẳng định rõ hơn xu hướng phục hồi của nền kinh tế.

Đạt được kết quả này trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là tình hình phức tạp trên Biển Đông, thể hiện sự nỗ lực, cố gắng rất lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. 

II. Tình hình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội những tháng đầu 2015

Bước vào năm 2015, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; bất ổn chính trị, mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo và xung đột diễn ra ở nhiều nơi; thách thức về an ninh mạng, nguồn nước, lương thực, năng lượng... ngày càng gay gắt. Kinh tế thế giới tiếp tục đà phục hồi nhưng chậm và không đồng đều. Giá dầu thô giảm và biến động mạnh. Khu vực châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục phát triển năng động nhưng vẫn còn nhiều thách thức, rủi ro. Cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn trong khu vực và tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông diễn biến phức tạp, khó lường.

Trong nước, tình hình kinh tế-xã hội có nhiều thuận lợi nhưng vẫn còn không ít khó khăn, thách thức. Nguồn lực cho phát triển còn hạn hẹp. Năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp. Thiên tai và biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp. Hội nhập quốc tế, nhất là việc hình thành Cộng đồng ASEAN và tham gia các hiệp định thương mại tự do với các đối tác lớn, tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển nhưng áp lực cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt. Việc bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức.

Triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo thực hiện quyết liệt Nghị quyết số 01/NQ-CP về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015. Phấn đấu đạt mục tiêu tổng quát và các chỉ tiêu chủ yếu đã đề ra, trong đó tốc độ tăng trưởng là 6,2%, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 10%, tốc độ tăng giá tiêu dùng khoảng 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,7-2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%, tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%.

1. Những kết quả đạt được

Tình hình kinh tế-xã hội những tháng đầu năm 2015 tiếp tục chuyển biến tích cực và đạt kết quả trên hầu hết các lĩnh vực.

a) Về ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế

Chỉ số giá tiêu dùng bốn tháng tăng 0,04%, thấp nhất trong nhiều năm qua . Tín dụng đối với nền kinh tế tăng 3,97%, cao hơn nhiều so với cùng kỳ (bốn tháng năm 2014 tăng 0,53%). Mặt bằng lãi suất tiếp tục ổn định và có xu hướng giảm. Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 8,2%. Thu ngân sách nhà nước tăng 9,4%, bảo đảm các nhiệm vụ chi theo kế hoạch. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện tăng 5%, đạt 4,2 tỷ USD. Vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân tăng 11,4%. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý 1 tăng 9,1%. Công tác quản lý thị trường, giá cả được tăng cường; không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá trong dịp Tết. Điều hành giá xăng dầu theo cơ chế thị trường và phù hợp tình hình thực tiễn. Thực hiện điều chỉnh giá điện gắn với hỗ trợ hộ chính sách, hộ nghèo .

GDP quý 1 tăng 6,03%, cao nhất trong năm năm qua; trong đó công nghiệp và xây dựng tăng mạnh, đạt 8,35%. Chỉ số sản xuất công nghiệp bốn tháng tăng 9,4%, cao hơn nhiều so với cùng kỳ các năm trước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 8,8%, loại trừ yếu tố giá còn tăng 8%, cao nhất kể từ năm 2011. Trên 28.000 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 9,7% về số doanh nghiệp và 13,3% về vốn đăng ký; đồng thời có 6.300 doanh nghiệp hoạt động trở lại. 


b) Về cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng

Tích cực triển khai Đề án tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và các ngành, lĩnh vực. Đã điều chỉnh và ban hành mới 15 quy hoạch ngành, lĩnh vực; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội bốn tỉnh. Nâng cao hiệu lực hiệu quả, đề cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trong triển khai thực hiện quy hoạch.

Hoàn thành sớm việc phân bổ kế hoạch vốn năm 2015; đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân các công trình, dự án quan trọng, cấp bách, nhất là về giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục. Hoàn thiện khung pháp lý thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng theo hình thức đối tác công-tư; tăng cường xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản. Việc cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém có chuyển biến tích cực; đã sáp nhập và mua lại thêm bốn ngân hàng. Thanh khoản của các tổ chức tín dụng được cải thiện. Tập trung thực hiện đồng bộ, hiệu quả các biện pháp xử lý nợ xấu. Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ của Công ty quản lý tài sản và cho phép phát hành trái phiếu để mua nợ xấu theo giá thị trường. 

Theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước đến cuối tháng Hai tỷ lệ nợ xấu giảm còn 3,59%. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, công ty nông lâm nghiệp được tập trung chỉ đạo, triển khai quyết liệt; đã cổ phần hóa được 43 doanh nghiệp, công bố giá trị 48 doanh nghiệp, thoái vốn nhà nước thu về trên 8.000 tỷ đồng.

Đã thành lập Ban Chỉ đạo liên ngành tái cơ cấu nông nghiệp. Xây dựng và triển khai thực hiện nhiều Đề án tái cơ cấu nội ngành, quy hoạch tổng thể vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các chính sách mới về quản lý đất lúa. Hỗ trợ nâng cao hiệu quả chăn nuôi nông hộ. Tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, xuất nhập khẩu nông lâm thủy sản. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các quy chuẩn quốc gia trong sản xuất, kinh doanh nông lâm thủy sản. Tháo gỡ khó khăn trong tiêu thụ nông sản; đẩy mạnh xuất khẩu, mua tạm trữ 1 triệu tấn quy gạo, mở thị trường mới cho một số loại hoa quả (thanh long, xoài, vải thiều, nhãn, chôm chôm...). Chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực, đến nay đã có bốn đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và triển khai Đề án tái cơ cấu các ngành xây dựng, giao thông vận tải, công thương. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng công trình xây dựng, nhất là các công trình trọng điểm quốc gia; rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển đô thị. Đẩy nhanh tiến độ và đưa vào khai thác một số công trình giao thông trọng điểm; hoàn thành và vượt tiến độ nhiều công trình, dự án quan trọng như mở rộng Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, cầu Nhật Tân, cao tốc Nội Bài-Nhật Tân, nhà ga T2-Cảng hàng không quốc tế Nội Bài, cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh-Long Thành-Dầu Giây... Đổi mới công tác quản lý đầu tư xây dựng và khai thác kết cấu hạ tầng giao thông. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm an ninh, an toàn vận tải hàng không. Tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các công trình công nghiệp lớn; đã tăng thêm trên 3.200 MW công suất nguồn điện mới. Điều hành kế hoạch khai thác, dự trữ dầu thô ứng phó với biến động thị trường thế giới. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, thương mại điện tử, thương mại vùng Đồng bằng sông Hồng và thương mại biên giới. 

c) Về các lĩnh vực văn hóa, xã hội

Quan tâm thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng; tặng quà Tết cho trên 2 triệu người; tổ chức nhiều hoạt động đền ơn đáp nghĩa gắn với kỷ niệm những ngày Lễ lớn của đất nước. Ban hành nhiều văn bản quy định chi tiết thi hành Bộ luật Lao động, Luật Việc làm. Đã giải quyết việc làm cho trên 500.000 lao động, tăng 2,7% so với cùng kỳ; trợ cấp thất nghiệp cho 113.000 người. Mở rộng thêm thị trường xuất khẩu lao động (Thái Lan, Australia, Hàn Quốc...). Thực hiện tăng lương, trợ cấp cho một số đối tượng. Xuất cấp trên 51.000 tấn gạo cứu đói trong dịp Tết Nguyên đán, giáp hạt, vùng hạn hán và hỗ trợ học sinh vùng đồng bào dân tộc khó khăn.

Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh; đẩy mạnh thực hiện Đề án giảm quá tải bệnh viện; đưa vào sử dụng nhiều công trình bệnh viện với trang thiết bị hiện đại, đồng bộ. Tích cực triển khai Luật Bảo hiểm y tế (có hiệu lực từ 01/01/2015). Tăng cường công tác y tế dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Tiêm vắcxin sởi-rubella cho gần 20 triệu trẻ em từ 1-14 tuổi, đạt 96,7%. Công tác bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm tiếp tục được quan tâm thực hiện; số mẫu thực phẩm không đạt an toàn giảm 30% so với năm trước. 

Tập trung chỉ đạo đổi mới giáo dục, đào tạo. Tích cực chuẩn bị tổ chức kỳ thi chung tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng. Không tổ chức thi tuyển vào lớp 6. Ban hành và chỉ đạo thực hiện đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Triển khai thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động của một số trường đại học.

Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương về phát triển khoa học và công nghệ. Ban hành và chỉ đạo thực hiện chính sách đầu tư phát triển tiềm lực và khuyến khích hoạt động khoa học, công nghệ trong các cơ sở giáo dục đại học. Đưa Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia đi vào hoạt động. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo, sáng kiến cải tiến kỹ thuật trong quần chúng nhân dân.

Tích cực triển khai Kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam. Tăng cường quản lý tổ chức lễ hội và các hoạt động văn hóa nghệ thuật. Tổ chức trang trọng, thiết thực các sự kiện lớn của đất nước, trong đó có Kỷ niệm 85 năm ngày thành lập Đảng, 40 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Công tác bảo tồn, phát huy các giá trị di tích lịch sử, di sản văn hóa tiếp tục được quan tâm. Thể thao thành tích cao có bước tiến bộ.

Báo cáo Trung ương Đề án quy hoạch phát triển và quản lý báo chí. Ban hành và triển khai thực hiện Chương trình hành động đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin. Chú trọng công tác thông tin, truyền thông, nhất là về đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và về các sự kiện lớn của đất nước. 

d) Về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu

Tích cực triển khai thi hành Luật Đất đai; điều chỉnh quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia đến năm 2020; tiếp tục xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai và bản đồ hiện trạng sử dụng đất. Hoàn thiện và tăng cường hiệu lực thực thi chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường, quản lý khoáng sản, tài nguyên nước và tài nguyên môi trường biển đảo; phát huy và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài nguyên môi trường phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.

Đã ban hành 25 quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các chương trình, kế hoạch, quy hoạch, đề án, dự án tập trung vào các lĩnh vực xử lý chất thải, ứng phó với biến đổi khí hậu, cải thiện môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, quy trình vận hành liên hồ chứa, ứng phó sự cố, thiên tai, tìm kiếm cứu nạn. Tập trung chỉ đạo chống hạn, giảm nhẹ thiệt hại, ổn định đời sống và sản xuất, nhất là tại các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. 

Sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách, nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Diện tích rừng trồng tập trung bốn tháng tăng 21,2%; diện tích rừng thiệt hại giảm 6,5% so với cùng kỳ. 

đ) Về cải cách hành chính, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng chống tham nhũng, lãng phí, buôn lậu, gian lận thương mại.

Tiếp tục triển khai Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước. Hoàn thiện các dự án Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp này. Việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật được tập trung chỉ đạo.

Đã ban hành và triển khai Kế hoạch đơn giản hóa thủ tục hành chính trọng tâm năm 2015 và Cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Đẩy mạnh đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhất là trong các lĩnh vực thuế, bảo hiểm xã hội, hải quan, đất đai, xây dựng, đầu tư, thành lập, giải thể, phá sản doanh nghiệp, tiếp cận điện năng và quản lý dân cư... Hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc cấp số định danh cá nhân, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Thực hiện thí điểm thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước. Tiếp tục triển khai đề án cải cách chế độ công vụ công chức; ban hành tiêu chuẩn, chức danh công chức, viên chức; danh mục vị trí việc làm; thí điểm thi tuyển chức danh lãnh đạo quản lý. Trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết về tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và trình Ban Chấp hành Trung ương mô hình chính quyền địa phương.

Công tác thanh tra và xử lý sau thanh tra được triển khai có trọng tâm trọng điểm, phát hiện và xử lý nhiều vi phạm. Việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo có chuyển biến tích cực, tập trung giải quyết những vụ việc khiếu nại, tố cáo đông người, phức tạp, tồn đọng kéo dài. Công tác phòng chống tham nhũng tiếp tục được quan tâm, tăng cường công khai, minh bạch, cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình. Tập trung chỉ đạo quyết liệt với nhiều giải pháp đồng bộ để từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, nhất là trong dịp Tết và ở khu vực biên giới phía Bắc, Tây Nam; trong quý 1 đã xử lý gần 50.000 vụ vi phạm, nộp ngân sách gần 3.000 tỷ đồng.

e) Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, hội nhập quốc tế

Tiềm lực quốc phòng, an ninh tiếp tục được tăng cường; chủ quyền quốc gia được giữ vững. An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm; phát hiện và ngăn chặn kịp thời các âm mưu, hoạt động chống phá, kích động gây rối. Công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông tiếp tục được triển khai quyết liệt; tai nạn giao thông giảm cả ba tiêu chí.

Công tác đối ngoại được triển khai toàn diện, đồng bộ cả song phương và đa phương, đưa các quan hệ đã thiết lập đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả, nhất là với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và nước bạn truyền thống; chủ động tham gia có trách nhiệm, tranh thủ được sự ủng hộ tại các diễn đàn đa phương. Kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân. Tổ chức thành công Đại hội đồng Liên minh Nghị viện thế giới lần thứ 132. Hội nhập quốc tế được triển khai đồng bộ trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đã ký Hiệp định thương mại tự do (FTA) Việt Nam-Hàn Quốc; chuẩn bị ký với Liên minh kinh tế Á-Âu và tiếp tục đẩy mạnh đàm phán FTA với các đối tác lớn. Tích cực tham gia xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015. Kịp thời đấu tranh với các hành động vi phạm chủ quyền và quyền lợi quốc gia ở Biển Đông. Tăng cường công tác bảo hộ công dân, bảo vệ quyền lợi của ngư dân, lao động Việt Nam ở nước ngoài.

2. Những khó khăn, hạn chế chủ yếu

(1) Sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng thấp hơn cùng kỳ. Hạn hán diễn ra nghiêm trọng ở nhiều nơi, nhất là Nam Trung Bộ và Tây Nguyên; tiêu thụ một số mặt hàng nông sản khó khăn, nhất là gạo, cao su, trái cây, ảnh hưởng đến đời sống nông dân. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giảm so cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước giảm. Khách quốc tế đến Việt Nam giảm 12,2%.

(2) Việc triển khai các cơ chế, chính sách cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp ở một số bộ, ngành, địa phương còn chậm. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp còn khó khăn. Số doanh nghiệp giải thể, ngừng hoạt động tăng 4,5% (so với cùng kỳ 2014). Thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản phục hồi chậm. Một số công trình, dự án quan trọng còn chậm tiến độ.

(3) Việc triển khai các đề án, chương trình, kế hoạch tái cơ cấu ở một số bộ, ngành, địa phương còn chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành, nâng cao hiệu quả hoạt động ở một số doanh nghiệp nhà nước và công ty nông lâm nghiệp còn chưa đạt yêu cầu. Ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi còn chưa nhiều. Chất lượng dịch vụ cải thiện còn chậm, nhất là trong lĩnh vực thương mại, du lịch.

(4) Một số quy định mới liên quan đến người lao động chưa tạo được sự đồng thuận cao, công tác truyền thông chưa tốt, để xảy ra ngừng việc tập thể đông người. Cháy nổ, tai nạn lao động còn xảy ra ở nhiều nơi, gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Việc mở rộng bao phủ bảo hiểm y tế còn nhiều khó khăn. Công tác bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm còn hạn chế. Việc triển khai thực hiện đổi mới giáo dục, đào tạo, nhất là trong thi cử còn lúng túng; đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn chưa đạt yêu cầu. Quản lý nguồn phóng xạ còn bất cập. Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử, một số hoạt động lễ hội phản cảm... gây bức xúc trong nhân dân. Công tác quản lý thông tin và an ninh, an toàn mạng còn nhiều sơ hở, bất cập. Sai phạm trong lĩnh vực truyền thông, báo chí còn nhiều. Tệ nạn xã hội phức tạp ở nhiều nơi.

(5) Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng vẫn còn xảy ra ở nhiều địa phương, gây bức xúc trong xã hội, dẫn đến khiếu kiện đông người. Tỷ lệ thu gom chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn chỉ đạt khoảng 40-55%. Tình trạng khai thác trái phép cát, sỏi ở sông và ven biển xảy ra ở nhiều địa bàn; còn nhiều điểm khai thác khoáng sản gây ô nhiễm môi trường. Sạt lở ven biển, ven sông và xâm nhập mặn diễn biến phức tạp.

(6) Thủ tục hành chính trong nhiều lĩnh vực vẫn còn phiền hà, thực thi chưa nghiêm, gây tốn kém thời gian và chi phí của người dân, doanh nghiệp. Vẫn còn nợ đọng văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành pháp luật. Hiệu quả phòng chống tham nhũng và thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn hạn chế; việc triển khai Luật Tiếp công dân ở một số địa phương còn chưa nghiêm. Lãng phí thời gian, nguồn lực xã hội còn lớn. 

(7) Bảo vệ chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt trước những diễn biến phức tạp ở Biển Đông. Tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn phức tạp. Vẫn xảy ra sai sót trong giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử. Tai nạn giao thông còn nghiêm trọng, nhất là trong các dịp Lễ, Tết và ở khu vực nông thôn. Thông tin, truyền thông và việc chuẩn bị điều kiện để chủ động hội nhập quốc tế đối với người dân và doanh nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục