Bảo tồn, phát huy giá trị di sản Huế gắn với du lịch

Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Huế luôn tạo ra được lợi thế cho sự phát triển, nhất là ngành kinh tế du lịch và ngược lại.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản Huế luôn tạo ra được lợi thế cho sự phát triển, nhất là ngành kinh tế du lịch và ngược lại, chính sự phát triển của kinh tế du lịch sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho việc quảng bá và bảo tồn các giá trị di sản văn hóa.

Đó là nội dung cuộc trao đổi giữa phóng viên TTXVN và tiến sỹ Phan Thanh Hải, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, nhân 20 năm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa của nhân loại (1993-2013).

- Xin ông cho biết nét đặc thù tạo nên các giá trị di sản Cố đô Huế?

Tiến sỹ Phan Thanh Hải: Huế là Cố đô duy nhất ở Việt Nam còn bảo lưu được khá nguyên vẹn tổng thể kiến trúc nghệ thuật cung đình, với hệ thống thành quách, cung điện, miếu đường, đền đài, lăng tẩm. Di sản văn hóa Huế là những kiệt tác nghệ thuật của nhân dân lao động trải qua bao thế hệ và đỉnh cao tài năng của những người thợ thủ công khéo tay nhất nước thời bấy giờ.

Thành phố Huế cũng là sự mẫu mực kết hợp hài hòa giữa các yếu tố con người, kiến trúc và cảnh quan thiên nhiên, là điển hình của loại hình kiến trúc cảnh vật hóa - một loại hình kiến trúc đậm đà bản sắc dân tộc và giàu tính nhân văn. Đặc điểm này đặt ra một yêu cầu rất nghiêm ngặt là vừa phải bảo vệ tổng thể di tích bao gồm bảo vệ các công trình kiến trúc gắn liền với bảo vệ cảnh quan thiên nhiên, bảo vệ di sản văn hóa vật chất đi đôi với bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tinh thần.

Sức hấp dẫn lớn của Huế là trải qua bao biến thiên lịch sử, Huế vẫn bảo tồn được chân giá trị của một kinh đô, bảo tồn được “Một kiệt tác về thơ kiến trúc đô thị” với hàng trăm công trình nghệ thuật tinh vi, tuyệt mỹ, phong phú, đa dạng về phong cảnh, đậm đà bản sắc truyền thống dân tộc, hòa quyện vào cảnh quan kỳ diệu của thiên nhiên, có giá trị đặc biệt về lịch sử và về văn hóa nghệ thuật. Đó chính là nhân tố chủ yếu cấu thành đặc thù của Huế, là nền tảng để Huế trở thành trung tâm văn hóa du lịch của cả nước và hiển nhiên là một thế mạnh về văn hóa và đang trở thành một thế mạnh trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Thừa Thiên-Huế trên cơ sở khai thác và phát huy giá trị của hệ thống di tích một cách hợp lý.

Trong kho tàng di sản văn hóa tinh thần còn có sinh hoạt cung đình, lễ hội cung đình (tế giao, thiết triều, đăng quang, truyền lô, tịch điền...) và các ngành nghề truyền thống đã được hình thành và phát triển trong quá trình xây dựng kinh đô và hiện nay cần phải được bảo tồn, phát triển để phục vụ cho công cuộc tu bổ, trùng tu, tôn tạo di tích. Đó là các nghề mộc, nề, pháp lam, sơn thếp, thêu ren, khảm chạm... Có thể nói, Huế là nơi hội tụ và lan tỏa ra cả nước những thợ lành nghề và đông đảo đội ngũ nghệ nhân có “bàn tay vàng” đã tạo nên những tác phẩm có giá trị mỹ thuật cao trên địa bàn Thừa Thiên-Huế và trên phạm vi cả nước.

Bên cạnh kho tàng di sản văn hóa vật chất đồ sộ có giá trị và tầm vóc quốc tế, Huế còn là một điểm nổi bật về di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng. Di sản văn hóa tinh thần ở Huế bao gồm văn hóa dân gian và văn hóa cung đình.

Văn hóa cung đình Huế với cội nguồn từ triều Lý, trải qua các triều đại Trần, Lê rồi lan tỏa hội tụ và kết hợp với truyền thống văn hóa vùng đất miền Trung và phía Nam của Tổ quốc đã được manh nha từ thời các chúa Nguyễn và phát triển đến đỉnh cao và hoàn chỉnh dưới thời các vua Nguyễn, để ngày nay đã tạo nên những giá trị văn hóa phi vật thể và truyền khẩu được cả nhân loại thừa nhận. Trong quá khứ vàng son, Huế đã tạo cho mình một nền văn hóa phong phú và đặc sắc vừa kế thừa truyền thống văn hóa Thăng Long vừa tiếp thu những yếu tố mới của miền Trung, miền Nam và bên ngoài để tạo nên một sắc thái riêng biệt của một vùng văn hóa - Văn hóa Huế.

- Hiện việc quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản Huế ra sao, thưa ông?

Tiến sỹ Phan Thanh Hải: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã được UNESCO ghi vào danh mục Di sản Thế giới vào ngày 11/12/1993 và âm nhạc Việt Nam - Nhã nhạc Cung đình Huế được UNESCO công nhận (tháng 11/2003) là kiệt tác truyền khẩu và Di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Để quản lý các di sản văn hóa của cố đô, sau ngày giải phóng miền Nam, tỉnh Bình Trị Thiên (và sau này là Thừa Thiên-Huế) đã thành lập một Ban quản lý di tích, sau đổi tên thành Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế. Đây là mô hình được giới quản lý và chuyên môn đánh giá là một mô hình đơn vị dẫn đầu trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa của quốc gia và di sản thế giới.

Từ năm 1996 đến nay, cùng với quá trình triển khai Quyết định 105/TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án quy hoạch, bảo tồn và phát huy giá trị di tích cố đô Huế giai đoạn 1996-2010 và Quyết định 818/TTg điều chỉnh dự án trên đến năm 2020. Di sản văn hóa Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và đang từng bước được hồi sinh, diện mạo ban đầu của một cố đô lịch sử dần dần được hồi phục.

Theo đánh giá của UNESCO, công cuộc bảo tồn di tích Huế hiện đang chuyển sang giai đoạn ổn định và phát triển bền vững. Đặc biệt, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa đã luôn gắn chặt với quá trình khai thác, phát huy và tạo điều kiện cho kinh tế du lịch, dịch vụ phát triển.

Những kết quả quan trọng ấy được thể hiện trên các mặt như bảo tồn, trùng tu di tích; bảo tồn văn hóa phi vật thể; bảo tồn, tôn tạo cảnh quan môi trường các khu di sản; hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực; phát huy giá trị di sản. Một số công trình tiêu biểu đã được trùng tu, gồm: Ngọ Môn, Điện Thái Hòa, Hiển Lâm Các, cụm di tích Thế Miếu, cung Diên Thọ, Duyệt Thị Đường, cung Trường Sanh, hệ thống Trường lang (Tử Cấm Thành), lầu Tứ Phương Vô Sự, điện Long An (Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế), cung An Định, tổng thể đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc (khu vực đàn chính), tổng thể lăng Gia Long, Minh Lâu, Điện Sùng Ân, Hữu Tùng Tự, Bi đình, Hiển Đức Môn (lăng Minh Mạng), Điện Hòa Khiêm, Minh Khiêm Đường, Ôn Khiêm Điện, Bửu thành và Bửu đỉnh Khiêm lăng (lăng Tự Đức), Thiên Định Cung, Bi Đình (lăng Khải định), Chùa Thiên Mụ, Cung An Định, 10 cổng Kinh Thành... Hiện nay, lăng Đồng Khánh, lăng Thiệu Trị cũng đang được triển khai trùng tu tổng thể sau khi các dự án trùng tu được phê duyệt.

Đối với văn hóa phi vật thể, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế đã tổ chức nghiên cứu, biên soạn, dịch thuật và xuất bản hơn 20 công trình về Di sản văn hóa Huế và công cuộc bảo tồn; trong đó có những công trình đoạt giải thưởng cao của trung ương và địa phương như Khoa cử và khoa bảng triều Nguyễn, Thần kinh nhị thập cảnh-Thơ vua Thiệu Trị, Kinh thành Huế, Huế-Di sản văn hóa thế giới, Âm nhạc cung đình Huế, Tuồng cung đình Huế, Khảo cổ học tại Di tích Cố đô Huế (1999-2003), Di sản văn hóa Huế-Nghiên cứu và bảo tồn, Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình Huế (6 tập), Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ tục biên (10 tập)... Tổ chức sưu tầm, nghiên cứu ứng dụng và bảo tồn được hàng chục tác phẩm âm nhạc cung đình quan trọng như 10 nhạc khúc trong lễ Tế Giao, 9 nhạc khúc trong Tế Liệt miếu, 5 nhạc khúc trong lễ Đoan Dương, Vạn Thọ và Tết Nguyên đán, 37 nhạc khúc diễn tấu với dàn Tiểu nhạc, 10 nhạc khúc diễn tấu trong các đợt vua ngự, 14 nhạc khúc kèn dùng trong Đại nhạc.

Sưu tầm nghiên cứu và dàn dựng thành công 15 điệu múa Cung đình tiêu biểu như Trình tường tập khánh, Tứ linh, Nữ tướng xuất quân, Bát Dật; dàn dựng 2 vở tuồng cung đình cổ và 25 trích đoạn tuồng phục vụ cho lễ hội và giao lưu văn hóa nghệ thuật; phục hồi một số lễ hội cung đình quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ Tế Nam giao, lễ tế Xã Tắc, lễ Truyền Lô-Vinh quy bái tổ (lễ vinh danh tiến sỹ dưới thời Nguyễn), lễ hội thi tiến sỹ Võ; những lễ hội mang màu sắc văn hóa cung đình như Huyền thoại sông Hương, Đêm Hoàng cung, Hành trình mở cõi... Đặc biệt, trong các dịp lễ hội Festival Huế, các loại hình nghệ thuật Cung đình, bao gồm cả lễ hội, âm nhạc, nghệ thuật thư pháp, nghệ thuật ẩm thực, trò chơi… đã thực sự đóng vai trò trung tâm trong các hoạt động của Thừa Thiên-Huế, trở thành đại diện tiêu biểu của văn hóa Huế trong sự đối thoại, giao lưu với bạn bè quốc tế.

- Vậy vai trò của các tổ chức quốc tế đối với công cuộc bảo tồn di sản văn hóa Huế ra sao, thưa ông?

Tiến sỹ Phan Thanh Hải: Về lĩnh vực hợp tác quốc tế, ứng dụng thành tựu khoa học bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực là một trong những lĩnh vực hoạt động đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong 15 năm qua, Di tích Huế đã hợp tác với hơn 25 tổ chức quốc tế, hàng chục các viện, trường đại học, ban ngành trong nước để tiến hành các hoạt động nghiên cứu bảo tồn di sản cả trên lĩnh vực văn hóa vật thể, phi vật thể và cảnh quan môi trường. Huế đã có sự hợp tác với UNESCO, Nhật Bản (Quỹ Toyota, Quỹ Japan Foundation, Trường đại học Nữ Sowa, Đại học Nihon, Đại học Waseda ...), Ba Lan, Canada, Pháp, Anh, Mỹ, Cộng hòa liên bang Đức, Thái Lan, Bỉ, Hàn Quốc, Hà Lan… thực hiện hàng chục dự án trùng tu, nghiên cứu bảo tồn và đào tạo nguồn nhân lực hết sức có ý nghĩa.

Nổi bật trong đó là dự án hợp tác nghiên cứu kiến trúc truyền thống Huế và phục hồi điện Cần Chánh (phối hợp với Đại học Waseda) đã thực hiện được gần 16 năm (1994-2010) với nguồn kinh phí được đầu tư ngày càng lớn và bước đầu đã đạt nhiều kết quả tốt.

Huế cũng đã có mối quan hệ hợp tác rộng rãi với nhiều đơn vị, bộ ngành trong nước để thực hiện các dự án quy hoạch, bảo tồn và đào tạo nhân lực; tiêu biểu như Đại học Huế, Trường đại học Kiến trúc Hà Nội, Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn, Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng, Viện Bảo tồn Di tích, Công ty Tu bổ Di tích Trung ương, Viện Âm nhạc Việt Nam, Nhạc viện Hà Nội, Nhạc viện Thành phố Hồ Chí Minh, Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Viện Sử học.

Chính qua các dự án hợp tác trên, đội ngũ cán bộ, chuyên viên, nghệ sỹ của Di tích Huế đã được đào tạo, trau dồi kiến thức thường xuyên và không ngừng trưởng thành. Từ năm 1996 đến nay, đã đào tạo được 3 tiến sỹ trong nước, 1 tiến sỹ và 5 thạc sỹ ở nước ngoài, 20 thạc sỹ trong nước, 20 cử nhân đại học nhã nhạc cùng hàng chục cử nhân, nghệ nhân, nghệ sỹ ở nhiều chuyên ngành khác nhau.

Đồng thời cũng đã tổ chức hàng chục lớp đào tạo nghiệp vụ hoặc cử chuyên viên tham gia các lớp đào tạo nghiệp vụ về bảo tồn trùng tu di sản, nghiên cứu văn hóa phi vật thể, bảo tàng học... Đội ngũ cán bộ, chuyên viên, nghệ sỹ đó đã trở thành lực lượng nòng cốt trong các hoạt động bảo tồn di sản trên tất cả các lĩnh vực hoạt động; nhiều người trong số đó đã trở thành cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn chủ chốt của các ban ngành.

Vấn đề khai thác và phát huy giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của hệ thống di tích Cố đô Huế hiện nay là giải pháp tốt nhất để bảo tồn di tích, làm cho di tích sống, hòa vào cuộc sống của xã hội đương đại, có tác dụng giáo dục và nâng cao đời sống văn hóa của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế, tạo nguồn sinh lợi để bảo tồn di tích. Đặc biệt là đầu tư tu bổ để phát triển ngành công nghiệp du lịch và các loại dịch vụ, tạo cơ sở để giải quyết việc làm cho người lao động, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.

Riêng tại khu di tích Huế, doanh thu trực tiếp từ năm 1996 đến hết 8/2012 đã đạt gần 825 tỷ đồn, doanh thu từ dịch vụ khác đạt hơn 50 tỷ đồng. Chính nguồn thu này đã góp phần rất quan trọng trong việc tái đầu tư cho hoạt động bảo tồn di sản và cải thiện đời sống của người lao động.

Xin cảm ơn ông!

Quốc Việt (TTXVN)

Tin cùng chuyên mục