Khoa học, dân chủ, đạo đức - 3 điều cần với Đảng cầm quyền

Đây là ba điều mấu chốt mãi mãi được chú trọng thực hiện trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong nỗ lực tự đổi mới, tự phát triển của Đảng với sự hỗ trợ đầy tin cậy của nhân dân.
Khoa học, dân chủ, đạo đức - 3 điều cần với Đảng cầm quyền ảnh 1Chủ tịch Hồ chí Minh tại mặt trận Đông Khê trong Chiến dịch Biên giới. (Ảnh Tư liệu TTXVN)

Từ những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về Đảng và Đảng cầm quyền tới xây dựng và thực hiện phong cách lãnh đạo, cầm quyền khoa học, dân chủ và đạo đức của Đảng nhằm làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, xứng đáng là một Đảng lãnh đạo cầm quyền, xứng đáng với niềm tin của dân vào Đảng là những vấn đề quan trọng được đề cập trong bài viết "Khoa học, dân chủ, đạo đức - Ba điều cần thiết đối với Đảng cầm quyền" của giáo sư-tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Hội đồng Lý luận Trung ương.

Nhân kỷ niệm 85 năm thành lập Đảng, TTXVN trân trọng giới thiệu bài viết "Xây dựng và thực hiện phong cách lãnh đạo, cầm quyền khoa học, dân chủ và đạo đức của Đảng."

Đảng là người khởi xướng và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới đã 30 năm nay. Nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn và sáng tạo, phản ánh đúng yêu cầu của thực tiễn phát triển đất nước, đáp ứng kịp thời nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với xu thế, trào lưu chung của thế giới mà trong chặng đường 30 năm đổi mới vừa qua, Đảng và nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Thế và lực của cách mạng nước ta được nâng cao. Bộ mặt đất nước biến đổi nhanh chóng. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Nhân dân ta ở mọi miền đất nước đều cảm nhận trực tiếp những thành quả của đổi mới qua lợi ích được thụ hưởng, dân chủ được thực hiện và quyền làm chủ được phát huy.

Dù còn nhiều khiếm khuyết và hạn chế, nhiều vấn đề bức xúc phải giải quyết, từ xây dựng chỉnh đốn Đảng, cải cách hành chính và tư pháp, chống quan liêu tham nhũng, khắc phục tệ nạn và tiêu cực xã hội cho đến chấn hưng giáo dục, nâng cao y đức, xây dựng văn hóa và con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, song đất nước sau 30 đổi mới đã có những bước tiến rất căn bản.

Bức tranh toàn cảnh của nước ta là chính trị ổn định, kinh tế tăng trưởng, công bằng xã hội từng bước được thực hiện, dân tộc đoàn kết và xã hội đồng thuận, cùng hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

Được như vậy, nhìn từ vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, là nhờ Đảng đã nỗ lực thực hiện ba điều cần thiết: khoa học, dân chủ, đạo đức như chỉ dẫn của Hồ Chí Minh.

Ba điều ấy đã và đang được thực hiện, mãi mãi được chú trọng thực hiện trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong nỗ lực tự đổi mới, tự phát triển của Đảng với sự hỗ trợ đầy tin cậy của nhân dân.

Đảng không chỉ đi tiên phong trong đổi mới tư duy mà còn ý thức ngày một đầy đủ, sâu sắc hơn sự cần thiết phải đổi mới nội dung, phương thức và phong cách lãnh đạo, cầm quyền của mình trong điều kiện phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường, xây dựng xã hội dân chủ và nhà nước pháp quyền, chủ động hội nhập quốc tế.

Làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ - đó là quyết tâm chính trị của Đảng mà cũng là trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và dân tộc. Đón kịp thời cơ, vượt qua thách thức và nguy cơ để dẫn dắt và đồng hành cùng nhân dân, cùng dân tộc tiến tới phát triển bền vững, văn minh, hiện đại hóa - đó là sự hối thúc từ thực tiễn đối với Đảng trên tư cách Đảng cầm quyền, lại duy nhất cầm quyền.

Khoa học hóa, dân chủ hóa sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng và thực hành văn hóa trong Đảng với đạo đức là cốt lõi đã từng được đặt ra trong xây dựng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng từ những ngày đầu của đổi mới.

Giờ đây, Đảng càng chú trọng xây dựng Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, giáo dục cho cán bộ đảng viên về đạo đức, lối sống, ngăn chặn và đẩy lùi suy thoái, biến chất trong một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, kể cả cấp cao, lấy lại niềm tin của đảng viên và nhân dân đã bị suy giảm nghiêm trọng từ bấy lâu nay.

Khi khởi xướng đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12/1986), Đảng ta nêu cao dũng khí tự phê bình, thừa nhận rằng, đã có lúc, Đảng phạm sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo đường lối chiến lược, do chủ quan duy ý chí, tả khuynh. Đó là thời kỳ sau khi nước nhà thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Một thập kỷ trước đổi mới, từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (1975-1985), cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng đã chậm thay đổi phương thức lãnh đạo, không ngang tầm nhiệm vụ, nhiều chủ trương quyết sách không phù hợp với thực tiễn, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng.

Một trong những bài học lớn mà Đảng rút ra là phải tôn trọng quy luật khách quan, không được làm trái quy luật. Đảng đề ra phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật,” thấm nhuần bài học “lấy dân làm gốc,” Đảng phải xuất phát từ thực tiễn, đổi mới vì cuộc sống và hạnh phúc của mọi người dân, Đảng phải làm tất cả những gì có thể làm được để không phụ lòng tin của dân.

Đổi mới là quyết sách chiến lược, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng để ổn định và phát triển. Đó là sự thể hiện thái độ khoa học nghiêm túc của Đảng cầm quyền, thống nhất quan điểm khoa học, quan điểm thực tiễn, quan điểm nhân dân của Đảng khi quyết định đổi mới, trước hết Đảng phải tự đổi mới.

Đổi mới đã đón kịp thời cơ, dũng cảm đương đầu với thách thức, nhất là khi đi vào kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Đổi mới của Việt Nam mang tầm vóc của một cuộc cách mạng, là sự gặp gỡ tất yếu và tự nhiên giữa đổi mới từ dưới lên, ở cơ sở, từ những sáng kiến sáng tạo của quần chúng, từ trách nhiệm của các tổ chức Đảng và đảng viên ở cơ sở với đổi mới từ trên xuống với những quyết sách kịp thời, đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại của các cơ quan lãnh đạo đầu não ở Trung ương. Ý Đảng là sự phản ánh đúng lòng dân, sự thống nhất giữa ý Đảng với lòng dân và phép nước tạo nên sự đồng thuận xã hội, làm nên sức mạnh của đổi mới.

Xuất phát từ thực tiễn, thấu hiểu nguyện vọng của dân, đánh giá đúng những sáng kiến và tiềm năng sáng tạo của dân, qua phân tích, tổng kết những tìm tòi, thử nghiệm và những đột phá về cơ chế, chính sách (khoán 100 - chỉ thị 100 của Ban Bí thư năm 1981 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp và khoán 10 - Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, năm 1988 về khoán đến hộ gia đình xã viên), Đảng ta đã khái quát thành lý luận và đi tới một quyết định lịch sử-đổi mới, ở Đại hội VI.

Đổi mới là một đường lối, một quyết sách chiến lược, giải phóng sức sản xuất và giải phóng mọi tiềm năng của xã hội với lực đẩy của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường và dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống. Đây là bước khởi đầu rất quan trọng để hình thành nhận thức lý luận mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Qua 30 năm đổi mới, Đảng ta đã xác định một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, làm rõ hệ giá trị mục tiêu của đổi mới đồng thời cũng là đặc trưng tổng quát của xã hội xã hội chủ nghĩa được xây dựng ở nước ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”

Đại hội XI cùng với thông qua Cương lĩnh (bổ sung, phát triển), trong đó xác định rõ tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, tám phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, tám mối quan hệ lớn cần nhận thức đúng và xử lý tốt trong thực tiễn đổi mới, Đảng ta còn nêu rõ hệ quan điểm phát triển bền vững trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội tới năm 2020, tầm nhìn 2030 và tới giữa thế kỷ 21. Đó là bước trưởng thành rõ rệt về lý luận của Đảng ta qua thực tiễn đổi mới.

Đó cũng là sự thể hiện và minh chứng sinh động về nhận thức và vận dụng sáng tạo quy luật khách quan trên quan điểm khoa học và phương pháp luận duy vật biện chứng của Đảng ta. Cũng cần nhấn mạnh rằng, trong 30 năm đổi mới, Đảng ta ngày càng thấy rõ hơn vai trò của lý luận và chú trọng lãnh đạo công tác tư tưởng lý luận - một lĩnh vực xung yếu để tăng cường tiềm lực trí tuệ, tiềm lực tư tưởng, lý luận, gắn chặt bản lĩnh chính trị với bản lĩnh khoa học trong lãnh đạo và cầm quyền.

Nghị quyết của Bộ Chính trị, khóa VII (1991) và Nghị quyết của Bộ Chính trị, khóa XI (2014) về công tác lý luận của Đảng trong tình hình mới, cũng như Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX, Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đều đề cập tới các quan điểm chỉ đạo, các yêu cầu và nhiệm vụ đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng, khắc phục tình trạng lạc hậu của lý luận so với thực tiễn.

Những nỗ lực to lớn đó cho thấy trong lãnh đạo và chỉ đạo, Đảng ta đã luôn nhất quán với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở phát triển sáng tạo, trung thành với di sản kinh điển Marx xít trên cơ sở phát triển sáng tạo, khắc phục chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại để làm giàu trí tuệ của Đảng, của dân tộc.

Các hoạt động giáo dục tư tưởng chính trị, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, đặc biệt là trang bị tri thức lý luận và phương pháp khoa học cho cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược trong những năm đổi mới vừa qua, nhất là trong nhiệm kỳ khóa XI được lãnh đạo cấp cao của Đảng hết sức quan tâm.

Nhờ đó, tư duy chiến lược, tầm nhìn chiến lược của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước cũng như đội ngũ cán bộ kế cận theo quy hoạch đã từng bước được chú trọng trau dồi, rèn luyện trong thực tiễn, từ thực tiễn đổi mới. Nhờ đó, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng được nâng cao, đảm bảo cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ.

Cùng với trình độ khoa học, tiềm lực lý luận, Đảng ta trong 30 năm đổi mới đã lãnh đạo triển khai thực hiện đường lối đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết là đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị đồng bộ với bước đi thích hợp, nhất là giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.

Để đổi mới có kết quả và hiệu quả hai lĩnh vực trọng yếu, then chốt này, tạo cơ sở vững chắc để đổi mới các lĩnh vực khác, trên tiền đề nhận thức là đổi mới tư duy, cần thiết phải tạo ra nguồn xung lực mạnh mẽ, tạo ra lực đẩy (động lực) cho phát triển kinh tế thị trường và đổi mới hệ thống chính trị, nội dung chủ yếu, trực tiếp của đổi mới chính trị. Nguồn xung lực và lực đẩy mạnh mẽ đó chính là dân chủ hóa, là dân chủ trong tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế.

Như đã nói ở trên, dân chủ là một trong những điều cần thiết đối với Đảng cầm quyền. Văn kiện Đại hội VI, đại hội mở đầu của công cuộc đổi mới đã xác định: dân chủ hóa toàn diện các lĩnh vực của đời sống để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu và động lực của đổi mới.

Đổi mới kinh tế trước hết là dân chủ hóa kinh tế, áp dụng cơ chế thị trường, tiến tới phát triển mạnh mẽ kinh tế thị trường như hiện nay chính là tạo ra tất yếu kinh tế để phát triển dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền.

Đổi mới hệ thống chính trị là thực hiện dân chủ hóa chính trị, xây dựng thể chế và cơ chế dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, làm cho chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta vận hành theo những nguyên tắc và chuẩn mực dân chủ, làm cho chính trị và hệ thống chính trị nước ta đóng được vai trò động lực chính trị để phát triển kinh tế và xã hội.

Khái niệm dân chủ và hệ thống chính trị lần đầu tiên được sử dụng trong văn kiện Đảng và sau đó được dùng rộng rãi, phổ biến trong các sách báo, tài liệu khoa học và trong đời sống chính trị, bắt đầu từ Hội nghị Trung ương 6, khóa VI, năm 1989, được định hình trong Cương lĩnh thời kỳ đổi mới năm 1991.

Dân chủ đã có mặt trong hệ mục tiêu của đổi mới từ Đại hội IX, 2001: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.”

Đến Đại hội XI (2011), dân chủ được xác định ở vị trí ưu trội trong hệ giá trị của phát triển, sau mục tiêu định hướng “Dân giàu, nước mạnh.”

Hệ mục tiêu ấy đã trở nên hoàn chỉnh sau một quá trình 15, 20 năm đổi mới để đến khi tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh vào năm 2011, tại Đại hội XI, hệ mục tiêu đó được xác định là đặc trưng tổng quát của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong Đổi mới, Đảng đã ra Nghị quyết (Hội nghị Trung ương 5, khóa IX, 2002) về đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn, gọi chung là cấp xã. Cũng trong đổi mới, Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở (1998) và Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở (2007) đã ra đời, có giá trị và ý nghĩa như một đạo luật dân chủ trong xã hội dân chủ và nhà nước pháp quyền. Đây là những bước tiến trong nhận thức lý luận và tổng kết thực tiễn về dân chủ ở nước ta.

Dùng sức mạnh dân chủ-pháp quyền để chống quan liêu tham nhũng, đó cũng chính là thực hành dân chủ trong Đảng, trong Nhà nước và trong đời sống xã hội nói chung.

Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa, xây dựng cơ sở pháp lý cho cuộc chiến chống tham nhũng rất cam go này, bởi tham nhũng đã trở thành quốc nạn, đã làm tổn hại tới dân chủ, tới lợi ích và quyền dân chủ, làm chủ của người dân, làm suy yếu Đảng và Nhà nước, làm ảnh hưởng tới thanh danh của Đảng, của chế độ và làm suy giảm niềm tin của nhân dân với chế độ, với Đảng và Nhà nước của mình.

Đảng chỉ đạo Nhà nước đưa các đại án tham nhũng ra xét xử công khai, minh bạch và trừng trị nghiêm khắc theo luật pháp, đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng một nền hành chính công minh bạch, thông thoáng, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ những rào cản gây phiền hà cho cuộc sống của người dân, cho hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp, doanh nhân trong nền kinh tế thị trường.

Xây dựng một nền tư pháp công bình chính trực, không gây ra oan sai trong xét xử và thi hành án. Đó là những bước đi cần thiết để xây dựng và phát triển dân chủ, hoàn thiện nhà nước pháp quyền.

Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến của nước ta, từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013, nhân dân tham gia góp ý vào dự thảo sửa đổi Hiến pháp một cách đông đảo, thiết thực, cụ thể, đầy trách nhiệm đến như vậy, với 26 triệu lượt ý kiến.

Coi trọng sức mạnh của dân chủ và pháp luật là thể hiện tinh thần trọng dân và trọng pháp, là tăng cường sức mạnh nhân dân để kiểm soát quyền lực, phòng ngừa sự tha hóa quyền lực.

Nhân dân trên tư cách người chủ và chủ thể đã tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, đó là môi trường và cơ hội bộc lộ, tính tích cực chính trị trong hoạt động tham chính của người dân. Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị nói chung tạo điều kiện, tạo môi trường, xác lập cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến tư vấn, phản biện cho đường lối, chính sách, giám sát, kiểm soát hành vi và đạo đức của cán bộ đảng viên, công chức, quan chức. Đó chẳng những là bước tiến mà còn là thành tựu của dân chủ.

Cũng lần đầu tiên, Quốc hội trong thời kỳ đổi mới đã thực hiện quyền chất vấn của các đại biểu Quốc hội đối với các Bộ trưởng, đối với Thủ tướng - người đứng đầu Chính phủ.

Đặc biệt là các Hội nghị Trung ương gần đây, đã bắt đầu thực hiện chất vấn của Trung ương đối với tập thể và cá nhân trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn cũng như bỏ phiếu tín nhiệm của Trung ương đối với các cá nhân trong Bộ Chính trị và Ban Bí thư gần đây là một nỗ lực thực hành dân chủ và đảm bảo dân chủ thực chất. Đây cũng là những dấu hiệu cho thấy một bước trưởng thành của ý thức và năng lực dân chủ, thực hành dân chủ ở nước ta.

Đảng cho dù ở địa vị cầm quyền, là lực lượng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền vẫn phải hoạt động theo tinh thần luật pháp và trong khuôn khổ pháp luật. Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.

Việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng trong Hiến pháp, việc đề cao trách nhiệm và chế độ trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trước nhân dân... là những chuyển biến tích cực, khởi sắc trong đổi mới chính trị và hệ thống chính trị ở nước ta, nhất là nỗ lực dân chủ hóa chính trị, thực hành dân chủ trong Đảng, làm cho lãnh đạo, cầm quyền một cách dân chủ trở thành nét đặc trưng văn hóa chính trị của Đảng.

Cũng trong 30 năm đổi mới, nhất là gần đây, với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng và chủ trương học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tiến hành thường xuyên, liên tục gần một thập kỷ nay, Đảng ta đã chú trọng giáo dục và thực hành đạo đức, văn hóa đạo đức trong xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.

Những chỉ dẫn cao quý, thiết thực của Hồ Chí Minh từ trong di sản của Người được thấm nhuần trong tư tưởng, hành động của Đảng, của từng tổ chức Đảng đến cán bộ đảng viên. Đó là, thực hiện lãnh đạo bằng sự gương mẫu, coi gương mẫu, nêu gương là cách lãnh đạo tốt nhất, một tấm gương sống còn quý hơn hàng trăm bài diễn văn; đó là tính tiên phong gương mẫu “đảng viên đi trước làng nước theo sau;” xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, Đảng “là đạo đức, là văn minh.”

Đẩy mạnh giáo dục, thực hành đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, xây đi liền với chống; thực hành tự phê bình và phê bình có lý có tình, có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau (Di chúc 1965-1969).

Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI về phát triển văn hóa và con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững cũng đã nhấn mạnh “Xây dựng văn hóa trong Đảng,” thực hành văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp lý, dân chủ-pháp quyền. Cốt lõi của văn hóa là đạo đức, giá trị cao nhất của văn hóa là giá trị con người nên xây dựng Đảng về văn hóa là một vấn đề quan trọng ở tầm chiến lược.

Tựu trung lại, thực hiện ba điều cần thiết đối với Đảng cầm quyền: Khoa học - Dân chủ - Đạo đức là thực hiện văn hóa trong Đảng, là xây dựng văn hóa của Đảng Cộng sản cầm quyền, sao cho Đảng tỏ rõ là Đảng chân chính cách mạng. Đây là một sự nghiệp lâu dài, song hành với hoạt động, với đời sống của Đảng, của đông đảo cán bộ đảng viên, của từng tổ chức Đảng ở nước ta.

85 năm lịch sử của Đảng ta là cả một sự nghiệp vẻ vang của cách mạng nước ta, kết tinh bao giá trị và truyền thống cao quý của Đảng, là niềm tự hào và tin cậy của toàn dân đối với Đảng.

Dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại là một chỉnh thể thống nhất, sống động, là ngọn nguồn sức sống, sức mạnh của Đảng. Đảng mạnh nhờ có dân, ở trong lòng dân. Đảng là Đảng chân chính cách mạng, là đạo đức, là văn minh bởi được nuôi dưỡng từ chủ nghĩa yêu nước, từ chủ nghĩa nhân văn-anh hùng và nhân ái của truyền thống Việt Nam, với Bác Hồ là người thể hiện sự kết tinh và thăng hoa tất cả những gì ưu tú đó để sáng lập và rèn luyện Đảng ta.

Từ khi bước vào đổi mới, các đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng đều diễn ra theo tinh thần “Đổi mới, trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, phát triển.”

Có thể hiểu đó là tính hướng đích của Đảng, là thông điệp mà Đảng gửi tới từng tổ chức, từng đảng viên của mình, cũng đồng thời là quyết tâm chính trị, trách nhiệm chính trị của Đảng để thực hiện trọng trách của Đảng cầm quyền. Đó còn là hành động sáng tạo đầy bản lĩnh và trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân và dân tộc.

Vào lúc này, lấy lại và làm tăng lên niềm tin của dân đối với Đảng, đòi hỏi Đảng phải trong sạch và vững mạnh. Có trong sạch mới có vững mạnh. Đã vững mạnh, tất yếu phải trong sạch. Đó là mệnh lệnh từ cuộc sống dội vào Đảng, là ý nguyện, tâm nguyện của dân ký thác đầy tin cậy vào Đảng của mình. Đó cũng là điều hệ trọng với Đảng vào lúc này.

Lenin từng nói cách thiết thực nhất để kỷ niệm những ngày lễ trọng là làm tốt hơn những gì chưa làm được, sửa chữa những khiếm khuyết, yếu kém còn đang tồn tại để Đảng xứng đáng là trí tuệ, danh dự, lương tâm của thời đại.

Hồ Chí Minh tin tưởng mãnh liệt, tuyệt đối rằng, cách mạng lấy sức mạnh trong lòng dân. Có dân giác ngộ, dân tin tưởng, dân yêu mến, dân giúp đỡ, dân ủng hộ và dân bảo vệ thì cách mạng và Đảng sẽ bền vững.

Việt Nam ngày nay, với hơn bốn triệu đảng viên, với 90 triệu dân, với tiềm năng to lớn, triển vọng tươi sáng nhất định sẽ trở thành một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hùng mạnh, hiện đại, xứng đứng với dân tộc anh hùng, Đảng quang vinh và Bác Hồ vĩ đại./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục