Tạo sinh kế tích cực cho người dân sinh sống tại Cù Lao Chàm

Du lịch sinh thái phát triển đã và đang tạo cơ hội cho người dân sinh sống tại Cù Lao Chàm cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tạo sinh kế tích cực cho người dân sinh sống tại Cù Lao Chàm ảnh 1Quang cảnh xã Tân Hiệp trên đảo Cù Lao Chàm. (Ảnh: Trần Lê Lâm/TTXVN)

Nằm cuối dòng sông Thu Bồn, thành phố Hội An được thừa hưởng sự đa dạng các hệ sinh thái vùng cửa sông và ven bờ.

Các bãi sậy, cồn cát, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô, quần cư rong biển, rừng tự nhiên Cù Lao Chàm, cũng như cảnh quan trên cạn và dưới nước đã và đang mang lại cho Hội An-Cù Lao Chàm một sự giàu có các dịch vụ sinh thái, tạo tiền đề phát triển kinh tế-xã hội địa phương, nhất là hình thức du lịch sinh thái.

Điểm nhấn của sự phát triển du lịch

Với công cụ là Khu bảo tồn biển được thành lập vào tháng 12/2005 và sau đó là Khu dự trữ sinh quyển được UNESCO công nhận vào tháng 5/2009, hoạt động du lịch sinh thái tại Cù Lao Chàm và Hội An đã phát triển ngày một mạnh mẽ.

Số du khách đến với Cù Lao Chàm năm 2004 là vài ngàn người, năm 2009 là hơn 40.000, năm 2012 là 106.000 và năm 2013 lên đến hơn 195.000 người, là minh chứng về sự hấp dẫn của vùng biển đảo ngập tràn nắng gió này.

Giám đốc Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm Chu Mạnh Trinh cho biết du lịch sinh thái phát triển đã và đang tạo cơ hội cho người dân cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Đến năm 2013 đã có trên 485 người dân địa phương trong tổng số 560 hộ gia đình tham gia trực tiếp vào hoạt động du lịch sinh thái, với hơn 12 loại hình sinh kế mới.

Thu nhập được nâng cao, chất lượng cuộc sống được cải thiện là động lực cho người dân tham gia vào hoạt động bảo vệ môi trường và tài nguyên vùng đảo.

Không chỉ mang lại lợi ích cho người dân địa phương, Cù Lao Chàm với sự phát triển du lịch sinh thái đã và đang là điểm nhấn làm giàu thành phố Hội An và các cộng đồng trong vùng bờ.

Tuy chỉ có 10% tổng số du khách từ Hội An đến với Cù Lao Chàm hàng năm (Hội An đón nhận 1,5 triệu du khách, trong khi đó Cù Lao Chàm tiếp đón 150.000 người), nhưng lợi ích mang lại cho dịch vụ du lịch trong đất liền là rất lớn.

Thông thường du khách đến thăm Cù Lao Chàm đều tăng thời gian lưu trú tại Hội An lên ít nhất 2 ngày. Hiện nay đã có 32 công ty vận tải khách du lịch từ Hội An ra Cù Lao Chàm với hơn 120 tàu, thuyền và canô cao tốc phục vụ, đạt tổng danh thu khoảng 100 tỷ đồng một năm.

Đến năm 2013, du lịch sinh thái Cù Lao Chàm đã nâng lên một tầm mới. Nơi đây thực sự trở thành sản phẩm mục tiêu trong phát triển du lịch của Hội An và Quảng Nam. Tại điểm cuối của vùng hạ lưu, một dòng vật chất được chuyển vào đất liền hoặc phục vụ du lịch trên đảo bao gồm các sản phẩm thủy sản, cua Đá, lá rừng, võng ngô đồng, cảnh quan môi trường, đời sống cộng đồng...

Một dòng tri thức và văn hóa được nghiên cứu chuyển giao, đó là mô hình bảo tồn biển, danh hiệu khu dự trữ sinh quyển, mô hình cua Đá, nói không với túi ni lông, phân loại rác tại nguồn, lưu trú nhà dân.

Du lịch sinh thái cần đảm bảo được hai yếu tố cơ bản là bảo tồn và thu nhập của ng ười dân địa phương trên cơ sở bảo tồn.

Du lịch sinh thái là loại hình du lịch tìm hiểu. Do vậy, Cù Lao Chàm-Hội An phải đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch, trong đó ngoài việc được hưởng những giá trị độc đáo của địa phương mang lại từ thiên nhiên, văn hóa, lịch sử, con người, thì họ còn cần được giáo dục.

Như thế, du lịch sinh thái luôn gắn liền mật thiết với đời sống kinh tế của người dân địa phương. Vì vậy, nghiên cứu du lịch sinh thái cũng gần tròn nghĩa với nghiên cứu sinh kế địa phương hưởng lợi từ hoạt động này. Đồng thời, sinh kế cộng đồng phải được nghiên cứu chi tiết theo 5 nguồn lực bao gồm tự nhiên, xã hội, con ng ười, tài chính, vật chất và cơ sở hạ tầng.

Mỗi nguồn lực lại được phân tích theo mô hình DPSIR (dẫn lực, áp lực, hiện trạng, tác động, và đáp ứng) để có thể tìm được các giải pháp thích hợp. Bên cạnh đó, các nguyên tắc SMART (cụ thể, lượng hóa, thực thi, hợp lý và thời gian), và SWOT (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức) cũng cần được áp dụng để sàng lọc và sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các chiến lược phát triển du lịch sinh thái tại địa phương .


Nguồn lực tự nhiên được bảo vệ và bảo tồn

Các hệ sinh thái rạn san hô, thảm cỏ biển, quần cư rong biển, rừng tự nhiên, bãi cát… là nguồn lực tự nhiên quan trọng hỗ trợ cho sự phát triển du lịch sinh thái Cù Lao Chàm-Hội An. Trong những năm qua, các nguồn lực này đã được tiếp cận với khái niệm bảo tồn biển, hay nói cách khác là tiếp cận quản lý trên cơ sở hệ sinh thái.

Với trên 736 loài thuộc 263 giống của các nhóm sinh vật chủ yếu trong hệ sinh thái rạn san hô và thảm cỏ biển đã được ghi nhận cho thấy khu hệ sinh vật trong vùng nước của Khu bảo tồn biển Cù Lao Chàm khá phong phú và đa dạng.

Cỏ biển có 5 loài thuộc 3 giống, rong biển kích thước lớn có 76 loài thuộc 46 giống, san hô tạo rạn có 277 loài thuộc 40 giống, cá rạn san hô có 270 loài thuộc 105 giống, thân mềm có 97 loài thuộc 61 giống và da gai có 11 loài thuộc 8 giống.

Cua Đá trong năm 2013 đã được cộng đồng quản lý, bảo vệ và khai thác hợp lý với số l ượng gần 7.000 con được bắt và kích thước mai cua đảm bảo với cam kết ban đầu là trên 7cm khi được dán nhãn sinh thái. Đối tượng tài nguyên này bước đầu được bảo vệ và quản lý khai thác một cách khoa học gắn liền với hệ thống giám sát đảm bảo được bền vững trong tương lai.

Tổng sản lượng tôm Hùm được khai thác tại Cù Lao Chàm là khoảng 15 tấn/năm trong đó 70% được bắt bởi người địa phương còn lại 30% bởi người ngoài. Trong 4 loại ốc Vú Nàng, chỉ còn ốc Vú Nàng Con là khoảng 5 tấn/năm, các loại ốc Vú Nàng Vú và ốc Vú Nàng Hang đang trong tình trạng bị tấn công rất mãnh liệt với kích thước khai thác rất bé.

Sản lượng khai thác hải sản trước đây của Cù Lao Chàm khoảng hơn 1.500 tấn mỗi năm, nhưng chỉ còn 800 tấn/năm từ khi có Khu bảo tồn biển và du lịch sinh thái. Hiện tại, ng ười dân tập trung vào khai thác các sản phẩm phục vụ du lịch.

Một số vùng ngư trường được bảo tồn, phần lớn là nơi có hệ sinh thái rạn san hô nhạy cảm. Tuy nhiên, một số đối tượng nguồn lợi đang bị khai thác quá mức, biểu hiện qua số lượng cá thể giảm dần, kích thước cá thể bé dần. Đây là thách thức lớn đối với nguồn lực tự nhiên phục vụ phát triển du lịch sinh thái lâu bền.

Nhu cầu h ưởng dụng tài nguyên thiên nhiên như tiêu thụ nguồn lợi sinh vật biển, sản phẩm rừng ngày càng gia tăng và mãnh liệt theo số lượng du khách đến thăm đảo. Điều này được phản ảnh qua giá bán sản phẩm tại địa phương.

Đồng thời thông qua kết quả tuần tra kiểm soát, cũng như độ phủ rạn san hô, mật độ cá rạn, việc khai thác một số đối tượng tài nguyên như Bào Ngư, điệp Quạt, ốc Vú Nàng, ốc Nón, Sao Biển, trai Tai Tượng, cá Cảnh đang phức tạp tại Cù Lao Chàm.

Cùng với hiện trạng khai thác khó kiểm soát của người ngoài địa phương, thế mạnh về nguồn lợi thủy sản và đa dạng sinh học tại Cù Lao Chàm có khả năng bị suy giảm, nếu không có giải pháp ngăn chặn, sẽ dẫn đến tình trạng nghèo nguồn lực tự nhiên trong tương lai không xa.

Các nguyên nhân gián tiếp liên quan đến suy giảm nguồn lợi là sự phối kết hợp trong quản lý nguồn lực tài nguyên thiên nhiên chưa đủ mạnh và thuyết phục cộng đồng tham gia bảo vệ.

Các lực lượng chức năng như công an xã, biên phòng, kiểm ngư, dân quân xã và bảo tồn biển cần có sự phối kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhau trong công tác tuần tra, kiểm soát, quản lý và bảo vệ.

Năm 2013, Cù Lao Chàm cũng đã ứng dụng công nghệ phục hồi san hô và đã nuôi cấy tại vùng phục hồi 4.800 tập đoàn, tại vườn ươm 750 tập đoàn san hô. Tỷ lệ sống của san hô nuôi cấy tại vườn ươm khoảng 87% và tại vùng phục hồi là 74%.

Số tập đoàn san hô tách từ vườn ươm sang phục hồi là hơn 400 tập đoàn. Đồng thời một số tập đoàn san hô bàn, cành mới cũng đã được ghi nhận tại các ghềnh đá Cù Lao Chàm. Đây là dấu hiệu phục hồi tự nhiên của các loài san hô tạo rạn tại các vùng nước được giữ gìn sạch sẽ./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục