Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế

Nhân 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân, Đại tá Vũ Khanh, Viện Chiến lược quốc phòng có bài viết về xây dựng Quân đội Nhân dân thời kỳ hội nhập quốc tế.
Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế ảnh 1 Cán bộ, chiến sỹ Tàu Cảnh sát biển 4033. (Ảnh: Trọng Đức/TTXVN)

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; xây dựng về tổ chức, biên chế và phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự; tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng là những vấn đề lớn được đề cập trong bài viết Xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế của Đại tá Vũ Khanh, Viện Chiến lược quốc phòng, Bộ Quốc phòng.

TTXVN xin giới thiệu bài viết nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Hiện nay, sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc diễn ra trong bối cảnh mới. Trước yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, quân đội phải nỗ lực nhiều hơn nữa trên tất cả các mặt công tác, trong mọi lĩnh vực hoạt động; đẩy mạnh xây dựng quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,” xứng đáng là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là mục tiêu quan trọng hàng đầu, lấy chất lượng chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu của quân đội, bảo đảm cho quân đội Việt Nam thực sự “miễn dịch” đối với các thủ đoạn nhằm làm cho nội bộ ta tự chuyển hóa, “phi chính trị hóa” đi đến vô hiệu hóa quân đội, chia rẽ quân đội với nhân dân, quân đội với Đảng và Nhà nước, quân đội với công an.

Để xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng đối với cán bộ, chiến sỹ nhằm không ngừng nâng cao tinh thần yêu nước và giác ngộ chủ nghĩa xã hội, trung thành với Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có niềm tin vào Đảng, chế độ và có bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ.” Đó là những yếu tố cốt lõi tạo nên sức mạnh chính trị-tinh thần to lớn của quân đội Việt Nam.

Công tác giáo dục trong quân đội là công tác xây dựng con người, toàn bộ hoạt động giáo dục trong quân đội phải tuân thủ theo định hướng chính trị của Đảng, những quan điểm có tính nguyên tắc và nghị quyết của Đảng. Tăng cường và đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp với điều kiện, yêu cầu mới, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục chính trị trong quân đội, nhất là hoạt động giáo dục đường lối, chính sách, pháp luật, rèn luyện quản lý đạo đức, lối sống cho cán bộ, chiến sỹ trong quân đội.

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị còn phải thường xuyên giữ vững và tăng cường đoàn kết, phát huy dân chủ, giữ nghiêm kỷ luật. Quân đội Việt Nam là quân đội cách mạng, là con em của nhân dân cùng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và hạnh phúc của nhân dân, cho nên cán bộ, chiến sỹ phải đoàn kết nhất trí trên dưới một lòng, thường xuyên giúp đỡ lẫn nhau.

Cần thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở trong quân đội nhằm phát huy quyền dân chủ của quân nhân, công nhân viên về quân sự, chính trị, kinh tế và đời sống trong các hoạt động của đơn vị, góp phần xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Phát huy dân chủ luôn gắn chặt với giữ nghiêm kỷ luật vì “kỷ luật là sức mạnh của quân đội.”

Xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại

Cần nhận thức sâu sắc rằng, trong lịch sử chiến đấu và xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và Quân đội Nhân dân, Việt Nam chưa bao giờ có điều kiện thuận lợi để tập trung xây dựng như hiện nay. Do đó, phải tìm cách tranh thủ thời gian có lợi hiện nay để xây dựng quân đội “của dân, do dân, vì dân,” có tổ chức chặt chẽ, có kỷ luật nghiêm, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị hùng hậu, được huấn luyện và trang bị các loại vũ khí ngày càng hiện đại, đủ khả năng bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích quốc gia và chế độ dân chủ nhân dân.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó, xây dựng chính quy là một nội dung thường xuyên, quan trọng. Xây dựng quân đội chính quy có nội dung rộng lớn, được thực hiện trên mọi mặt hoạt động, ở tất cả các cấp, các ngành, ở mọi nơi, mọi lúc.

Đó là sự thống nhất cao về bản chất cách mạng, mục tiêu, ý chí chiến đấu; về quan điểm, tư tưởng, nghệ thuật quân sự, hành động, tác phong chiến đấu; về nguyên tắc tổ chức, biên chế quân đội và tổ chức, phương pháp huấn luyện, giáo dục; về duy trì chế độ, nền nếp công tác, ý thức chấp hành điều lệnh, kỷ luật quân đội, thực hiện cương vị, chức trách quân nhân.

Xây dựng quân đội chính quy, tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động của mọi quân nhân, là cơ sở nâng cao sức mạnh tổng hợp, trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Vì vậy, xây dựng chính quy trong công tác sẵn sàng chiến đấu phải tạo được sự thống nhất cao về tư tưởng, hành động, tính chính xác trong hiệp đồng, tổ chức kỷ luật nghiêm minh trong mọi tình huống.

Xây dựng quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại” là một thể thống nhất, có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau để tạo thành sức mạnh tổng hợp của quân đội. Vì vậy, xây dựng quân đội chính quy đòi hỏi phải vận dụng tổng hợp nhiều biện pháp, được tiến hành thường xuyên, liên tục, trong mọi hoàn cảnh, mọi nhiệm vụ; phải tạo chuyển biến cả trong nhận thức và hành động, xây dựng được tính tự giác, tính tổ chức, kỷ luật và tính thống nhất cao.

Trong công tác tổ chức quản lý, chỉ huy, từng cơ quan, đơn vị phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận và cá nhân; trên cơ sở đó, xây dựng trách nhiệm cao trong việc thực hiện chức trách quân nhân, chức trách, cương vị đảm nhiệm.

Xây dựng về tổ chức, biên chế và phát triển nguồn nhân lực

Đó là việc xây dựng Quân đội Nhân dân có số lượng thường trực hợp lý, chất lượng cao, có lực lượng dự bị động viên hùng hậu. Bộ đội địa phương và Bộ đội Biên phòng được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình và nhiệm vụ của từng địa phương; chú ý các địa phương ở biên giới, rừng núi, ven biển, hải đảo. Công tác huấn luyện phải thực hiện theo phương châm “thiết thực, cơ bản, vững chắc,” theo chủ trương huấn luyện bộ đội giỏi tác chiến với vũ khí có trong biên chế, trên cơ sở đó thành thạo tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng.

Trong thời bình, tiếp tục thực hiện chủ trương giảm quân số thường trực, xây dựng lực lượng dự bị động viên phù hợp đáp ứng các yêu cầu khi có tình huống khẩn cấp hoặc chiến tranh. Lực lượng thường trực của quân đội được giữ ở mức hợp lý, tinh gọn, bảo đảm sức chiến đấu. Thực hiện giảm các đầu mối, từng bước chuyển giao một số hoạt động bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức dân sự, cơ cấu lại biên chế lực lượng vũ trang theo hướng ưu tiên cho các đơn vị chiến đấu, các đơn vị đang thực hiện nhiệm vụ quan trọng, các quân chủng, binh chủng kỹ thuật là những định hướng cơ bản về tổ chức và biên chế lực lượng vũ trang nói chung và quân đội nói riêng.

Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức phù hợp với các thành phần kinh tế, các cơ sở sản xuất, các đơn vị hành chính sự nghiệp. Lực lượng dân quân, tự vệ được xây dựng và phát triển theo hướng “vững mạnh, rộng khắp,” có chất lượng tổng hợp cao, trước hết là chất lượng chính trị; có lực lượng cơ động thường trực và lực lượng rộng rãi với số lượng và tỷ lệ phù hợp, có cơ cấu tổ chức hợp lý.

Phát triển khoa học và nghệ thuật quân sự

Cần quán triệt tư tưởng quan điểm quân sự của Đảng và bám sát những phát triển mới trong lĩnh vực quân sự và kỹ thuật quân sự trên thế giới để giải quyết đúng đắn và sáng tạo các vấn đề khoa học nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới; tăng cường công tác bảo đảm kỹ thuật để giữ được các vũ khí trang bị hiện có, sử dụng lâu dài. Xây dựng công nghiệp quốc phòng từng bước thích hợp và hoà nhập công nghiệp quốc phòng với nền công nghiệp của đất nước để giải quyết một phần nhu cầu về quốc phòng và kinh tế thời bình, sẵn sàng chuyển sang thời chiến.

Trong bối cảnh mới, khoa học quân sự Việt Nam được bổ sung lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong thời bình. Khoa học quân sự Việt Nam được xây dựng từ cơ sở thực tiễn và lý luận quân sự Việt Nam; đồng thời tiếp thu những tinh hoa của khoa học quân sự thế giới và áp dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến những nhân tố mới do tác động của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ trong lĩnh vực quân sự.

Để đối phó thắng lợi với cuộc chiến tranh công nghệ cao nếu xảy ra, Việt Nam phải đẩy mạnh việc tổng kết, phát triển và hoàn thiện lý luận chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới. Đó là sự thể hiện phương pháp cách mạng, là sự vận dụng tổng hợp các hình thức, phương pháp đấu tranh trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa tư tưởng nhằm đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ địch bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng

Mở rộng quan hệ đối ngoại và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế về quốc phòng là một định hướng quan trọng trong xây dựng quân đội trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Quân đội Nhân dân sẽ tiếp tục mở rộng các mối quan hệ quốc phòng song phương nhất là các mối quan hệ trọng điểm đi vào chiều sâu. Các lĩnh vực ưu tiên trong quan hệ quốc phòng song phương của Quân đội Nhân dân Việt Nam với các nước là trao đổi các đoàn quân sự, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm; hợp tác huấn luyện, đào tạo, giải quyết các vấn đề nhân đạo…

Tiếp tục mở rộng các mối quan hệ quốc phòng chính thức, thiết lập thêm các Phòng tùy viên quốc phòng tại một số nước để nâng cao hiệu quả hợp tác quốc phòng; tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước ASEAN trong khuôn khổ chương trình xây dựng Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN và phù hợp quan hệ song phương với từng nước theo hướng mở rộng chia sẻ thông tin, kinh nghiệm, tăng cường hợp tác đào tạo, huấn luyện, phối hợp xử lý các vấn đề an ninh mà các bên cùng quan tâm.

Chú trọng mở rộng đối thoại quốc phòng với các nước có liên quan để chia sẻ các quan điểm của nhau, nâng cao sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tạo ra cơ hội giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của các bên. Đối thoại chính sách quốc phòng, chiến lược quốc phòng cấp Thứ trưởng Bộ Quốc phòng hàng năm với một số quốc gia trong khối ASEAN, các nước lớn và nhiều quốc gia trên thế giới sẽ được duy trì, mở rộng và sẽ nâng cấp thành Đối thoại chiến lược cấp Bộ trưởng Quốc phòng khi cần thiết.

Cùng với việc tăng cường trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, tiếp tục mở rộng các hình thức đối thoại, giao lưu quốc phòng ở nhiều cấp như giao lưu giữa các sỹ quan trẻ, hợp tác giữa các nhà trường, các viện nghiên cứu của Bộ Quốc phòng Việt Nam với các nước... để nâng cao hiểu biết, sự tin cậy chiến lược giữa Quân đội Việt Nam với quân đội các nước.

Đẩy mạnh hợp tác hải quân trên tinh thần hữu nghị và hợp tác bảo vệ an ninh biển. Cùng với việc đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất để có thể đón các đoàn tàu quân sự của các nước tới thăm các cảng của Việt Nam, Hải quân Việt Nam sẽ tăng cường cử các đoàn tàu hải quân đi thăm hữu nghị nước ngoài trước hết là các nước láng giềng.

Tiếp tục mở rộng hoạt động giao lưu với hải quân các nước nhằm nâng cao hiểu biết, tin cậy lẫn nhau giữa các đơn vị hải quân, tạo dựng quan hệ hợp tác để giải quyết các vấn đề nảy sinh trên biển nhằm ngăn ngừa xung đột, góp phần tăng cường tình hữu nghị giữa quân đội các nước, thực hiện giữ vững hòa bình, ổn định khu vực có tranh chấp và trên Biển Đông.

Các hoạt động hợp tác huấn luyện hải quân sẽ được tăng cường trước hết là nhằm phục vụ các hoạt động nhân đạo, cứu trợ thảm họa. Cùng với nỗ lực giải quyết các vấn đề biên giới trên biển, tiếp tục mở rộng các cơ chế hợp tác bảo vệ an ninh biển với các quốc gia và các thể chế khu vực. Hải quân Việt Nam tiếp tục duy trì và phát huy hiệu quả các đường dây nóng, các hoạt động tuần tra chung với hải quân các nước.

Bộ đội Biên phòng Việt Nam chủ động hợp tác chặt chẽ với lực lượng biên phòng và an ninh các nước để thực hiện nghiêm chỉnh các điều ước quốc tế về biên giới, các thỏa thuận hợp tác biên phòng nhằm phòng chống các loại tội phạm như buôn lậu qua biên giới, di cư bất hợp pháp, buôn bán phụ nữ và trẻ em, ma túy... góp phần xây dựng biên giới hòa bình và hữu nghị.

Quân đội Nhân dân sẽ trực tiếp thực hiện chủ trương tham gia các hoạt động gìn giữ hoà bình Liên hợp quốc, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên trong công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng. Việc chính thức thành lập Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam (tháng 5/2014) sẽ góp phần nâng cao chất lượng điều hành và huấn luyện nhân sự đáp ứng cao nhất các yêu cầu tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam sẽ phối hợp chặt chẽ với các trung tâm gìn giữ hòa bình của các nước ASEAN và các quốc gia khác đào tạo các nhân viên, trước hết là trong các lĩnh vực công binh, quân y có chất lượng cao để tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.

Giải quyết các vấn đề an ninh phi truyền thống cũng là lĩnh vực ưu tiên trong hợp tác quốc phòng của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới trong những năm tới.

Để nâng cao hiệu quả hợp tác trên lĩnh vực này, Quân đội Nhân dân tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hợp tác cả song phương và đa phương như trao đổi thông tin, kinh nghiệm, lập cơ chế phối hợp với các cơ quan hữu quan của các nước để phòng ngừa, đối phó và xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống có liên quan..../.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục