Trong khi chưa có nhiều tín hiệu rõ ràng về khả năng thắng cử giữa cặp đấu tay đôi, ứng cử viên của đảng Dân chủ, ông Barack Obama và ứng cử viên của đảng Cộng hòa, ông Mitt Romney, trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ diễn ra ngày 6/11 tới, nhiều chuyên gia phân tích tại Pháp dự báo kết quả bầu cử tổng thống Mỹ sắp diễn ra sẽ rất sít sao và nhiều kịch tính.
Tờ La Tribune của Pháp đã điểm lại 5 cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ kịch tính nhất trong lịch sử.
Năm 1876: Một phiếu đại cử tri tạo sự khác biệt
Mười một năm sau khi chấm dứt cuộc nội chiến ở Mỹ, miền Nam vẫn còn bị chiếm đóng bởi quân đội liên bang, song người Mỹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với những bất đồng, chia rẽ.
Tổng thống mãn nhiệm Ulysses Grant, một vị tướng miền Bắc, không thể tiếp tục tranh cử sau hai nhiệm kỳ với quá nhiều vụ scandal tham nhũng.
Sau 16 năm tồn tại của nền cộng hòa, nhiệm vụ của ứng cử viên đảng Cộng hòa Rutherford Hayes trở nên hết sức khó khăn trước đối thủ là ứng cử viên đảng Dân chủ Samuel Tiden.
Thực vậy, kết quả bầu cử cho thấy ông Tiden đã dẫn đầu với cách biệt rộng về số phiếu phổ thông, hơn đối thủ Cộng hòa 250.000 phiếu, với tỷ lệ phiếu bầu 51%. Ông Hayes chỉ đạt 47,9% phiếu bầu phổ thông. Tuy nhiên, xét về số phiếu đại cử tri, kết quả rất sít sao và vẫn gây tranh cãi ở Mỹ.
Hai ứng cử viên Tổng thống đều tuyên bố thắng cử tại ba bang: Nam Carolina, Florida và Louisana, là những bang miền Nam nơi phe Cộng hòa khiếu nại tình trạng bạo lực nhằm vào ứng cử viên của họ, trong khi phe Dân chủ lên án hành động chiếm đóng quân sự.
Sau cùng, ủy ban bầu cử do phe Cộng hòa kiểm soát, tuyên bố phần thắng tại ba bang kể trên thuộc về ông Hayes, giành được 185 phiếu đại cử tri so với 184 phiếu của đối thủ thuộc đảng Dân chủ. Cuộc bầu cử này được đánh giá là gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Năm 2000: Sai lệch của các máy bỏ phiếu
Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2000 được xem là một cuộc đấu cam go giữa vị phó tướng của Tổng thống mãn nhiệm Bill Clinton, Phó Tổng thống Al Gore và ứng cử viên Cộng hòa George Bush con.
Sau khi đóng cửa các thùng phiếu, kết quả các cuộc thăm dò đưa ra lợi thế cho ông Al Gore, song lại không thể cho kết quả chính xác số phiếu đại cử tri. Rất nhanh, tất cả đều phát hiện ra việc phụ thuộc vào kết quả từ bang Florida.
Tại bang miền Nam này, tình hình rất khó đoán định. Những lá phiếu được kiểm từ các máy kiểm phiếu (dùng phương pháp đục lỗ phiếu bầu để kiểm phiếu) hầu như không cho phép xác định một kết cục rõ ràng. Sau cùng, với việc kiểm lại, ông George Bush con đã giành thêm 25 phiếu đại cử tri tại bang Florida. Và dù ít hơn 500.000 phiếu phổ thông ở cấp độ liên bang, song ông George Bush con đã giành được 271 phiếu đại cử tri và trở thành Tổng thống thứ 43 của nước Mỹ.
Năm 1880: Chỉ hơn 1898 phiếu phổ thông để trở thành Tổng thống
Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa từng gây tranh cãi Rutherford Hayes từ chối ra tranh cử, như ông đã hứa năm 1876.
Ông James Garfield trở thành ứng cử viên của đảng Cộng hòa, với đặc điểm tự rèn luyện, nhiều nghị lực vươn lên trong hoạt động chính trị. Ngược lại, phe Dân chủ đã khao khát chiến thắng từ 20 năm, giới thiệu một ứng cử viên mạnh: Winfield Hancock, đại tướng, người miền Bắc, đã tham gia tái thiết miền Nam, là nhân vật hiện thân cho sự hòa giải và chính trực.
Chiến dịch tranh cử diễn ra căng thẳng và người dân Mỹ tỏ ra do dự, khó chọn ra vị Tổng thống của riêng họ. Sau cùng, ông Garfield đã giành chiến thắng khi hơn 1898 phiếu phổ thông ở cấp độ liên bang so với ông Hancock, chỉ khoảng 0,1% phiếu bầu. Cho đến nay, đây là cuộc bầu cử có tỷ lệ chiến thắng sát nút nhất trong lịch sử bầu cử Tổng thống Mỹ.
Năm 1960, Kennedy trở thành Tổng thống với tỷ lệ vượt trội thấp
Sau 8 năm làm Tổng thống Mỹ dưới thời Dwight Eisenhower, nước Mỹ khao khát một thế hệ lãnh đạo trẻ trung. Chính vì thế, hai chính trị gia trẻ tuổi đã đối đầu nhau trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1960.
Đại diện đảng Dân chủ John Kennedy (43 tuổi) đối mặt với Richard Nixon (47 tuổi). Chiến dịch tranh cử diễn ra sôi nổi quanh chủ đề Chiến tranh Lạnh. Cuộc tranh luận giữa hai ứng cử viên đã lần đầu tiên được tổ chức trên truyền hình. Sự ủng hộ của Kennedy đối với mục sư Martin Luther King có ý nghĩa quyết định: ông Kennedy đã vượt trước Richard Nixon 110.000 phiếu, khoảng 0,2%, một tỷ lệ vượt trội rất thấp.
Năm 1888: chiến thắng thuộc về người nắm đa số phiếu đại cử tri, song lại chỉ giành thiểu số phiếu phổ thông
Là Tổng thống thuộc đảng Dân chủ đầu tiên kể từ năm 1860, Grover Cleveland tiếp tục tranh cử nhiệm kỳ 2 sau một nhiệm kỳ thành công với đà tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Đối mặt với ông Cleveland trong kỳ tranh cử Tổng thống năm 1888, ứng cử viên Cộng hòa Benjamin Harrison bảo vệ chính sách bảo hộ, nhận được sự ủng hộ của các bang phát triển công nghiệp và đông công nhân ở miền Bắc.
Kết quả bầu cử cũng rất sát nút. Tại các tiểu bang Indiana và New York, các bang của Cleveland, Harrisson chỉ giành được gần 1%. Kết quả: Dù chiếm đa số phiếu phổ thông 48,6% so với 46,8% của ứng cử viên Harrisson, song Grover Cleveland đã mất 45 phiếu đại cử tri.
Ông Cleveland chỉ giành được 168 phiếu đại cử tri, so với 233 phiếu đại cử tri của Benjamin Harrison. Phe Cộng hòa thắng cử trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó. Và Benjamin Harrison được biết đến là “Tổng thống của nước Mỹ 100 tuổi”, bởi nhiệm kỳ của ông đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm kể từ thời điểm George Washington trở thành Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ vào năm 1789./.
Tờ La Tribune của Pháp đã điểm lại 5 cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ kịch tính nhất trong lịch sử.
Năm 1876: Một phiếu đại cử tri tạo sự khác biệt
Mười một năm sau khi chấm dứt cuộc nội chiến ở Mỹ, miền Nam vẫn còn bị chiếm đóng bởi quân đội liên bang, song người Mỹ bắt đầu cảm thấy mệt mỏi với những bất đồng, chia rẽ.
Tổng thống mãn nhiệm Ulysses Grant, một vị tướng miền Bắc, không thể tiếp tục tranh cử sau hai nhiệm kỳ với quá nhiều vụ scandal tham nhũng.
Sau 16 năm tồn tại của nền cộng hòa, nhiệm vụ của ứng cử viên đảng Cộng hòa Rutherford Hayes trở nên hết sức khó khăn trước đối thủ là ứng cử viên đảng Dân chủ Samuel Tiden.
Thực vậy, kết quả bầu cử cho thấy ông Tiden đã dẫn đầu với cách biệt rộng về số phiếu phổ thông, hơn đối thủ Cộng hòa 250.000 phiếu, với tỷ lệ phiếu bầu 51%. Ông Hayes chỉ đạt 47,9% phiếu bầu phổ thông. Tuy nhiên, xét về số phiếu đại cử tri, kết quả rất sít sao và vẫn gây tranh cãi ở Mỹ.
Hai ứng cử viên Tổng thống đều tuyên bố thắng cử tại ba bang: Nam Carolina, Florida và Louisana, là những bang miền Nam nơi phe Cộng hòa khiếu nại tình trạng bạo lực nhằm vào ứng cử viên của họ, trong khi phe Dân chủ lên án hành động chiếm đóng quân sự.
Sau cùng, ủy ban bầu cử do phe Cộng hòa kiểm soát, tuyên bố phần thắng tại ba bang kể trên thuộc về ông Hayes, giành được 185 phiếu đại cử tri so với 184 phiếu của đối thủ thuộc đảng Dân chủ. Cuộc bầu cử này được đánh giá là gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Năm 2000: Sai lệch của các máy bỏ phiếu
Cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2000 được xem là một cuộc đấu cam go giữa vị phó tướng của Tổng thống mãn nhiệm Bill Clinton, Phó Tổng thống Al Gore và ứng cử viên Cộng hòa George Bush con.
Sau khi đóng cửa các thùng phiếu, kết quả các cuộc thăm dò đưa ra lợi thế cho ông Al Gore, song lại không thể cho kết quả chính xác số phiếu đại cử tri. Rất nhanh, tất cả đều phát hiện ra việc phụ thuộc vào kết quả từ bang Florida.
Tại bang miền Nam này, tình hình rất khó đoán định. Những lá phiếu được kiểm từ các máy kiểm phiếu (dùng phương pháp đục lỗ phiếu bầu để kiểm phiếu) hầu như không cho phép xác định một kết cục rõ ràng. Sau cùng, với việc kiểm lại, ông George Bush con đã giành thêm 25 phiếu đại cử tri tại bang Florida. Và dù ít hơn 500.000 phiếu phổ thông ở cấp độ liên bang, song ông George Bush con đã giành được 271 phiếu đại cử tri và trở thành Tổng thống thứ 43 của nước Mỹ.
Năm 1880: Chỉ hơn 1898 phiếu phổ thông để trở thành Tổng thống
Tổng thống thuộc đảng Cộng hòa từng gây tranh cãi Rutherford Hayes từ chối ra tranh cử, như ông đã hứa năm 1876.
Ông James Garfield trở thành ứng cử viên của đảng Cộng hòa, với đặc điểm tự rèn luyện, nhiều nghị lực vươn lên trong hoạt động chính trị. Ngược lại, phe Dân chủ đã khao khát chiến thắng từ 20 năm, giới thiệu một ứng cử viên mạnh: Winfield Hancock, đại tướng, người miền Bắc, đã tham gia tái thiết miền Nam, là nhân vật hiện thân cho sự hòa giải và chính trực.
Chiến dịch tranh cử diễn ra căng thẳng và người dân Mỹ tỏ ra do dự, khó chọn ra vị Tổng thống của riêng họ. Sau cùng, ông Garfield đã giành chiến thắng khi hơn 1898 phiếu phổ thông ở cấp độ liên bang so với ông Hancock, chỉ khoảng 0,1% phiếu bầu. Cho đến nay, đây là cuộc bầu cử có tỷ lệ chiến thắng sát nút nhất trong lịch sử bầu cử Tổng thống Mỹ.
Năm 1960, Kennedy trở thành Tổng thống với tỷ lệ vượt trội thấp
Sau 8 năm làm Tổng thống Mỹ dưới thời Dwight Eisenhower, nước Mỹ khao khát một thế hệ lãnh đạo trẻ trung. Chính vì thế, hai chính trị gia trẻ tuổi đã đối đầu nhau trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 1960.
Đại diện đảng Dân chủ John Kennedy (43 tuổi) đối mặt với Richard Nixon (47 tuổi). Chiến dịch tranh cử diễn ra sôi nổi quanh chủ đề Chiến tranh Lạnh. Cuộc tranh luận giữa hai ứng cử viên đã lần đầu tiên được tổ chức trên truyền hình. Sự ủng hộ của Kennedy đối với mục sư Martin Luther King có ý nghĩa quyết định: ông Kennedy đã vượt trước Richard Nixon 110.000 phiếu, khoảng 0,2%, một tỷ lệ vượt trội rất thấp.
Năm 1888: chiến thắng thuộc về người nắm đa số phiếu đại cử tri, song lại chỉ giành thiểu số phiếu phổ thông
Là Tổng thống thuộc đảng Dân chủ đầu tiên kể từ năm 1860, Grover Cleveland tiếp tục tranh cử nhiệm kỳ 2 sau một nhiệm kỳ thành công với đà tăng trưởng kinh tế ấn tượng. Đối mặt với ông Cleveland trong kỳ tranh cử Tổng thống năm 1888, ứng cử viên Cộng hòa Benjamin Harrison bảo vệ chính sách bảo hộ, nhận được sự ủng hộ của các bang phát triển công nghiệp và đông công nhân ở miền Bắc.
Kết quả bầu cử cũng rất sát nút. Tại các tiểu bang Indiana và New York, các bang của Cleveland, Harrisson chỉ giành được gần 1%. Kết quả: Dù chiếm đa số phiếu phổ thông 48,6% so với 46,8% của ứng cử viên Harrisson, song Grover Cleveland đã mất 45 phiếu đại cử tri.
Ông Cleveland chỉ giành được 168 phiếu đại cử tri, so với 233 phiếu đại cử tri của Benjamin Harrison. Phe Cộng hòa thắng cử trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm đó. Và Benjamin Harrison được biết đến là “Tổng thống của nước Mỹ 100 tuổi”, bởi nhiệm kỳ của ông đúng vào dịp kỷ niệm 100 năm kể từ thời điểm George Washington trở thành Tổng thống đầu tiên của nước Mỹ vào năm 1789./.
Trung Dũng/Paris (Vietnam+)