Bằng chứng hiển nhiên Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam

Những hiện vật, tài liệu đang được trưng bày tại huyện Trường Sa, Khánh Hòa, là bằng chứng hiển nhiên về chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa từ nhiều thế kỷ.
Bằng chứng hiển nhiên Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam ảnh 1Khách tham quan những hiện vật, tài liệu trong Triển lãm“Quần đảo Hoàng Sa – Chủ quyền của Việt Nam” tại Đà Nẵng. (Nguồn: TTXVN)

Những hiện vật, tài liệu đang được trưng bày tại huyện Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa, đã góp phần khẳng định vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Bằng máu xương, công sức, mồ hôi và nước mắt, các thế hệ người Việt đã bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, trong đó có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Hoàng Sa, Trường Sa hiển nhiên là của Việt Nam

Phòng Truyền thống đảo Nam Yết đang trưng bày nhiều hiện vật, tài liệu trong và ngoài nước khẳng định việc thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa một cách hòa bình, liên tục qua các thời kỳ.

Tại gian trưng bày “Nhà nước phong kiến Việt Nam thực hiện chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa” có bốn tấm bản đồ cổ do người phương Tây vẽ. Đây được xem là một trong những bằng chứng khách quan, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam.

Một trong số đó là tấm bản đồ "An Nam đại quốc họa đồ" của Giám mục Taberd, xuất bản năm 1838 ghi rất rõ: "Quần đảo Hoàng Sa thuộc nước An Nam," đồng thời thể hiện phần lãnh thổ của Trung Quốc không hề có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

Hàng loạt Châu bản triều Nguyễn được trưng bày ở ngay phía cửa trước Phòng Truyền thống đảo Nam Yết cũng nhắc đến việc thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Nhà nước phong kiến Việt Nam.

Đơn cử như Châu bản triều Nguyễn ngày 22 tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 14 (tức năm 1833), ghi: "Tâu trình ông Phạm Văn Sênh đi thực hiện công vụ ở Hoàng Sa, khi trở về đã kê khai sai số người đi thực hiện công vụ nên việc ban thưởng có số thừa. Số tiền bạc thừa chưa lĩnh mà lại quá ít nên Nội các xin gia ân cho miễn xét tội cho ông Sênh."

Ở một góc khác trong phòng này là bản sao "Giấy chứng sinh" do đại diện phái đoàn nước An Nam làm ở đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa, ngày 28/8/1940, ghi thông tin: "Họ và tên của em bé: Mai Kim Quy. Giới tính: Nữ. Ngày và nơi sinh: 7/12/1939, lúc 15 giờ tại đảo Hoàng Sa thuộc quần đảo Hoàng Sa. Là con gái ông Mai Xuân Tập, nhân viên khí tượng và bà Nguyễn Thị Thắng, nội trợ. Người làm chứng thứ nhất: Nguyễn Tăng Chuẩn, bác sỹ Đông Dương. Người làm chứng thứ hai: Đỗ Đức Mai, Giám đốc Đài Phát thanh. Đại diện phái đoàn ký tên: Chauvet."

Các cán bộ Phòng Truyền thống đảo Nam Yết còn cho biết thêm, đợt khai quật năm 1993-1994, 1995 và 1999 ở Trường Sa do Viện Khảo cổ học Việt Nam tiến hành đã tìm thấy nhiều di tích, di vật thời đại văn hóa Sa Huỳnh vốn ở vùng ven biển miền Trung Việt Nam cách ngày nay khoảng 2.000 năm, và gốm, sứ, sành thời nhà Trần, Lê, Nguyễn...

Những cứ liệu này đã chứng minh, lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm nhưng việc thực thi chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa luôn tiếp nối liên tục và thống nhất.


Cột mốc chủ quyền linh thiêng và bất khả xâm phạm

Trên mỗi chuyến tàu ra thăm Trường Sa, ai cũng xúc động khi nghe điếu văn đọc trong Lễ tưởng niệm các Anh hùng hy sinh ở quần đảo Trường Sa: ...“Cốt xương các anh đã kết liền với san hô và đá ngầm tạo nên cột mốc chủ quyền linh thiêng, để thế trận giữ biển, đảo của Tổ quốc ngày càng mạnh hơn, vững chắc hơn.”

Lời điếu văn bi tráng này được cất lên từ vùng biển đảo Cô Lin thuộc quần đảo Trường Sa, nơi có biết bao nhiêu người con của dân tộc Việt Nam đã mãi mãi nằm lại trong lòng biển cả vì sự nghiệp bảo vệ biển, đảo quê hương.

Đó là tấm gương Thiếu úy Trần Văn Phương, trước lúc hy sinh đã hiên ngang quấn lấy lá cờ Tổ quốc quanh thân mình, động viên đồng đội: “Không được lùi bước, phải để cho máu mình tô thắm lá cờ Tổ quốc và truyền thống Quân chủng Hải quân.” Hay sự mưu trí của Thiếu tá Vũ Huy Lễ chỉ huy tàu HQ-505 vừa chiến đấu, vừa nhanh chóng lao lên bãi đá ngầm Cô Lin, để con tàu trở thành pháo đài và cột mốc chủ quyền bất khả xâm phạm.

Sau khi thắp nén tâm hương, đứng nghiêm mình giơ tay chào những đồng đội đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ biển, đảo của Tổ quốc, Đại tá Nguyễn Viết Thuân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện Trường Sa, xúc động cho biết ngôi chùa ở Trường Sa mới được trùng tu lại để làm nơi thờ tự anh linh của tất cả những người đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ biên giới, hải đảo của Tổ quốc. Thế hệ hôm nay luôn luôn nhớ về những người đã ngã xuống, để nâng cao trách nhiệm bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.

Trong tâm khảm của Đại đức Thích Pháp Đạt, trụ trì chùa Trường Sa Lớn, thì chùa ở Trường Sa vừa là nơi đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân, vừa như cột mốc khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này.

“Trong tâm thức, người Việt đi đâu cũng mang theo văn hóa, tín ngưỡng. Có thể nói, chỗ nào có người Việt, ở đó có đình, chùa. Ở Trường Sa cũng vậy, chùa đã có từ rất lâu bởi, ngay từ khi người dân bước chân lên quần đảo này. Họ chính là những ngư dân, khi lên đảo đã lập chùa để cầu bình an, vượt qua bão tố trong mỗi chuyến đi biển xa. Ngày nay, chùa ở Trường Sa được trùng tu để đáp ứng tốt hơn nhu cầu tâm linh và gìn giữ cốt cách văn hóa của người Việt nơi đầu sóng ngọn gió,” Đại đức Thích Pháp Đạt tâm sự.

Tiếp nối thế hệ đi trước, chiến sỹ Trường Sa vẫn đang ngày đêm bảo vệ và tiếp tục khẳng định chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc trên từng viên gạch, cây xanh, cho đến các công trình dân sinh, như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: "Ngày trước, ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay ta có ngày, có trời có biển. Bờ biển ta dài tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy nó"./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục