"Bóng ma" khủng hoảng dây chuyền ám ảnh các nền kinh tế mới nổi

Những gì vừa xảy ra tại Thổ Nhĩ Kỳ rồi Argentina có thể là dấu hiệu tiên cảnh báo cho các thị trường đang lên. Câu hỏi đặt ra là liệu các nền kinh tế mới nổi có rơi vào khủng hoảng dây chuyền không?
"Bóng ma" khủng hoảng dây chuyền ám ảnh các nền kinh tế mới nổi ảnh 1Giao dịch viên làm việc tại Sở giao dịch chứng khoán Buenos Aires, Argentina. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Theo Đài RFA, một “bóng ma” đang ám ảnh các thị trường mới nổi. Sau Thổ Nhĩ Kỳ, tuần qua tới lượt Argentina bắt đầu mắc họa khi đồng peso sụt giá 20% trong có vài ngày và chính quyền phải nâng lãi suất tới mức kỷ lục là 60%, lần thứ tư trong vòng vài tháng.

Liệu các nền kinh tế đang mở mang có thể trôi vào một cơn khủng hoảng dây chuyền hay không? Đài RFA đã có cuộc phỏng vấn với chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa về vấn đề này.

Về rủi ro của nguy cơ khủng hoảng dây chuyền, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa cho rằng những gì vừa xảy ra tại Thổ Nhĩ Kỳ rồi Argentina có thể là dấu hiệu tiên báo một chuỗi tai họa cho các thị trường đang lên, “khởi đầu là cơn chấn động trên thị trường ngoại hối khi đồng nội tệ bị mất giá nặng so với các ngoại tệ khác, sau đó sẽ còn là nguy cơ lạm phát, suy giảm sản xuất và thất nghiệp gia tăng.”

Theo ông, để tìm hiểu nguyên nhân, người ta nên nhìn lại những gì diễn ra khoảng 10 năm trước.

Ông nói: “Sau vụ khủng hoảng tài chính manh nha từ châu Âu vào đầu năm 2018 rồi cao điểm là sự sụp đổ của tổ hợp đầu tư Lehman Brothers cùng nhiều doanh nghiệp tài chính và bảo hiểm của Mỹ ngày 15/9 năm đó, thế giới sa vào Đại Suy thoái 2008-2009. Khi ấy, ngân hàng trung ương Mỹ đã hạ lãi suất tới gần số không rồi ào ạt bơm tiền bằng biện pháp bất thường học của Nhật Bản là ‘nới lỏng định lượng.’ Ngân hàng trung ương châu Âu và nhiều nước khác cũng áp dụng biện pháp này. Nhờ vậy, tiền nhiều và rẻ đã tràn ra khắp nơi.

Khi tình hình kinh tế Mỹ đã khả quan hơn, dù chưa hoàn toàn hồi phục sau suy thoái, thì giữa năm 2013 Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã báo trước việc tăng lãi suất rồi dần dần hút bớt lượng tiền đã bơm ra. Kết quả là ngày nay đồng USD lên giá và nội tệ của các nền kinh tế đang lên bị sụt giá.”

Bình luận về mối quan hệ giữa đồng tiền của các nước đang phát triển với đồng USD và những hậu quả có thể xảy ra, chuyên gia kinh tế này cho rằng khi USD tăng thì nội tệ của các nước đều bị ảnh hưởng.

Tuy nhiên tình hình sẽ khó khăn hơn cho các nước đã vay quá nhiều và bị thâm hụt cán cân vãng lai.

[IMF: Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung đe dọa các thị trường mới nổi]

Ông nhấn mạnh: “Nghiêm trọng nhất là các nước đi vay bằng đồng USD vì nghĩa vụ trả nợ, từ vốn đến lời, sẽ cao hơn. Trong số này, gay go hơn cả là hoàn cảnh của các quốc gia có ít dự trữ ngoại tệ để vượt qua sóng gió vì chênh lệch tỷ giá giữa đồng nội tệ và USD."

Khi nghĩa vụ trả nợ trở nên lớn hơn, các doanh nghiệp phải cắt giảm phí tổn, giới tiêu thụ cũng khó trả nợ, nguy cơ vỡ nợ và phá sản dễ lây lan trong nền kinh tế. Hậu quả là kinh tế bị sụt giảm, sản xuất đình trệ, buộc chính quyền phải có các biện pháp ứng phó, như giảm chi, hoặc tăng thuế là việc Argentina vừa làm.

Ông nói thêm: “Ngân hàng trung ương Argentina phải nâng lãi suất để giới tư bản khỏi thoái vốn, ngăn lạm phát tăng vọt và nhất là để giữ giá cho đồng nội tệ của mình. Các biện pháp ứng phó có vẻ cổ điển ấy cũng là ‘liều thuốc đắng’, có khi còn khiến tình hình trầm trọng hơn, bởi các chính sách kinh tế khắc khổ sẽ gieo họa cho các nước mắc nợ, nhất là nợ bằng USD.”

Hiệu ứng dây chuyền dễ xảy ra với các quốc gia đang phát triển, nhất là những nước mắc nợ nhiều và nợ bằng đồng USD.

Ngoài ra chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa còn liệt kê một loạt yếu tố khiến các quốc gia dễ đối mặt với nguy cơ này như cho vay tín dụng ồ ạt, không kiểm soát tình trạng đầu cơ; đổ tiền vào các dự án ít giá trị kinh tế; có hệ thống ngân hàng thiếu lành mạnh; bội chi ngân sách; thâm hụt cán cân vãng lai; nợ bằng ngoại tệ ngắn hạn quá cao, tức là khối nợ đáo hạn thanh toán đã cận kề; dự trữ ngoại tệ không đủ lớn để đáp ứng yêu cầu cấp bách; cơ cấu công nghiệp quá lệch lạc, nền kinh tế quá lệ thuộc vào xuất khẩu, nhất là xuất khẩu thương phẩm là nguyên nhiên vật liệu; cơ chế hành chính suy yếu, bị tham nhũng đục khoét; và cuối cùng là có giới lãnh đạo kinh tế và chính trị bất tài.

Các thị trường đều lo ngại về nguy cơ khủng hoảng dây chuyền. Nguyên nhân này được chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa lý giải: “Năm 2007, trước khi có Đại Suy thoái, khối nợ của các nước đang phát triển là tương đương với khoảng 21.000 tỷ USD, qua năm 2017 đã lên tới 63.000 tỷ USD, là gấp ba trong có 10 năm. Nếu so với GDP thì từ 145% GDP khối nợ này lên tới 210% GDP. Nợ của các doanh nghiệp phi tài chính và các hộ gia đình đều tăng.

Trong khối nợ này thì nợ bằng ngoại tệ như USD, euro của châu Âu hay đồng yen Nhật, đã tăng gấp đôi. Khoảng một chục quốc gia có khối nợ bằng ngoại tệ ở mức 20% tới 50% GDP, như Ấn Độ, Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Nam Phi, Chile, Brazil và vài nước Đông Âu. Đáng ngại hơn cả là khoản nợ sẽ đáo hạn là đến ngày trả trong năm 2019 rồi năm 2020, là khoảng 1.500 tỷ USD mỗi năm. Nhiều nước thiếu ngoại tệ cho yêu cầu đó thì có thể vỡ nợ."

Về “số phận” nền kinh tế thứ hai thế giới, vốn có khối dự trữ ngoại tệ cao nhất tương đương với 3.000 tỷ USD, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa khẳng định nguồn dự trữ của Trung Quốc không thuộc loại “nhàn rỗi,” nghĩa là có thể dùng bất kỳ khi nào cần.

Một phần số ngoại tệ này đã được cam kết cho kế hoạch xây dựng “Vành đai và Con đường.” Khoảng 1/3 số này là để mua trái phiếu Mỹ.

Ông nói: “Điều người ta cần nhớ là ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung và các biện pháp khác mà chính quyền Mỹ đe dọa… Gánh nặng nợ của Trung Quốc thực chất không đúng với các số liệu mà họ công bố mà có thể còn lớn hơn nhiều. Dù có sản lượng kinh tế được cho là đứng thứ hai thế giới, Trung Quốc thật ra cũng chỉ là một nước đang phát triển với tất cả những chứng bệnh như kể trên.”

Dự đoán về những nguy cơ trong tương lai, chuyên gia Nguyễn Xuân Nghĩa bình luận: “Khủng hoảng tài chính 2007 bất ngờ bùng phát tại Thái Lan, sau đó lan ra khắp Đông Nam Á, và ảnh hưởng đến cả Nga khiến nền kinh tế này vỡ nợ vì thiếu 150 tỷ USD. Từ kinh nghiệm đó, các nước đã cố gom một khối dự trữ ngoại tệ an toàn hơn và thu hút được giới đầu tư tài chính của bên ngoài qua việc vay nợ. Nhưng sau đó, các nước lại đón nhận nhiều rủi ro mới như thả nổi đồng bạc, liên tục vay mượn, gây biến động thị trường và dẫn tới tình trạng thoái vốn.

Việc giới đầu tư tìm cách rút vốn làm các thị trường tài chính càng sa sút vì tuột giá. Hậu quả là suy thoái và lạm phát sẽ lan rộng tại các nước đang phát triển và người ta tìm cách bảo vệ tài sản bằng vàng hay USD làm hai sản phẩm này lên giá. Đã vậy, khi USD tăng giá vì kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh nhất kể từ mười mấy năm nay, thì tình hình còn khó xử hơn nữa”./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục