Chìa khóa ‘công nghệ’ cho bài toán phục hồi thời kỳ hậu COVID-19

Yêu cầu đặt ra là xác định rõ triết lý phát triển, mô hình, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển của giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn năm 2045.
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương-Trần Tuấn Anh phát biểu. (Ảnh: Vietnam+)
Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương-Trần Tuấn Anh phát biểu. (Ảnh: Vietnam+)

Quá trình phục hồi kinh tế-xã hội sau dịch COVID-19 và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên nền tảng cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang gặp phải những trở ngại lớn, điển hình như mô hình tăng trưởng chưa dựa nhiều trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Do đó, tính tự chủ của nền kinh tế còn thấp, phụ thuộc lớn vào bên ngoài.

Đây cũng là một trong những nội dung chính được đưa ra bàn thảo tại Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về Công nghiệp 4.0 – Industry 4.0 Summit với chủ đề “Phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội bền vững thời kỳ hậu COVID-19 và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá trong kỷ nguyên số,” do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì và phối hợp với các bộ, ngành Trung ương liên quan tổ chức ngày 6/12.

Nhiều thách thức tiềm ẩn phía trước

Tại diễn đàn, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh phát triển công nghiệp của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chủ yếu phát triển theo mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững.

Trong khi đó, dịch bệnh COVID-19 diễn biến ngày càng phức tạp, khó lường. Sự xuất hiện của biến thể mới Omicron nguy cơ làm tăng trưởng GDP toàn cầu năm 2022 giảm từ 0,2-0,4 điểm phần trăm. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đang chịu tác động mạnh mẽ của dịch COVID-19 đến các hoạt động kinh tế-xã hội và đời sống, ảnh hưởng lâu dài đến cả cung và cầu. Lần đầu tiên, tăng trưởng quý 3/2021 giảm sâu (- 6,17%). Đây là mức giảm sâu nhất kể từ khi Việt Nam tính và công bố GDP quý đến nay, theo đó ước tính GDP của Việt Nam năm nay ước đạt 2-2,5%.

Chìa khóa ‘công nghệ’ cho bài toán phục hồi thời kỳ hậu COVID-19 ảnh 1Diễn đàn cấp cao thường niên lần thứ ba về Công nghiệp 4.0 – Industry 4.0 Summit, ngày 6/12.(Ảnh: Vietnam+)

Trưởng Ban Kinh tế Trung ương đánh giá dịch COVID-19 còn tiếp tục kéo dài và khó lường. Do vậy, nền kinh tế đất nước sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ vượt quá sức chịu đựng của người dân và doanh nghiệp.

Vì vậy, ông Tuấn Anh chỉ ra nhu cầu cấp bách, khẩn trương hiện nay là tìm kiếm những giải pháp hiệu quả nhằm phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội bền vững thời kỳ hậu COVID-19 đồng thời tạo nền tảng, hỗ trợ các động lực tăng trưởng trong dài hạn thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển triển mới.

“Yêu cầu đặt ra là phải xác định rõ triết lý phát triển, mô hình và chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển mới của giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045,” ông Tuấn Anh nói.

Thúc đẩy nền kinh tế kỹ thuật số

Tại diễn đàn, các báo cáo tập trung trao đổi xoay quanh chủ đề chính về phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội bền vững gắn với phòng, chống dịch bệnh và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo

Theo ông Mary Hallward-Driemeier, cố vấn kinh tế cao cấp, Ngân hàng Thế giới, chính sách ưu tiên đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là thúc đẩy nền kinh tế kỹ thuật số trong quá trình phục hồi sau COVID-19 và áp dụng nhiều giải pháp hỗ trợ chiến lược tăng trưởng xanh.

Ông Mary Hallward nhấn mạnh mục tiêu đầy tham vọng nền kinh tế kỹ thuật số đạt 20% GDP vào năm 2025 và 30% vào năm 2030 và đây sẽ là công cụ hướng tới tăng khả năng cạnh tranh, phục hồi của Việt Nam sau COVID-19. Mặt khác, chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của Việt  Nam giai đoạn 2021-2030 cũng đã bắt đầu nhấn mạnh vào phát triển bền vững, bao gồm phát triển kinh tế xanh và phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn.

Đánh giá cụ thể hơn về khả năng cạnh tranh, ông Mary Hallward cho rằng có nhiều giải pháp để mở rộng, trong đó cơ hội trong các ngành dịch vụ sẽ là động lực quan trọng cho tăng trưởng trong sản xuất công nghiệp quốc gia, cụ thể là những đổi mới công nghệ ở nhiều lĩnh vực xuất khẩu của Việt Nam, như điện tử, máy móc, phụ tùng ôtô... Tuy nhiên về chính sách, Việt Nam còn nhiều quy định hạn chế trong kinh doanh dịch vụ, bao gồm cả đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI.

Hơn nữa, ông Mary Hallward cũng chỉ ra giải pháp nhằm tăng khả năng tiếp cận công nghệ trong nội dung của các chính sách khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, như việc điều chỉnh các công cụ hỗ trợ dịch vụ cũng như sản xuất công nghiệp, tăng cường khả năng thiết kế, nghiên cứu và phát triển… sẽ giúp chuyển sang các phân khúc có giá trị gia tăng cao hơn.

“Việt Nam nên tập trung hơn vào thúc đẩy áp dụng công nghệ để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể để trở thành nhà cung cấp và có nhiều cơ hội phát triển bao trùm hơn. Thêm vào đó, năng lực quản lý các cấp cần được nâng cao, phải năng động hơn để kịp xử lý những thay đổi trên thị trường và thúc đẩy áp dụng các cách thức sản xuất mới,” ông Mary Hallward nói.

Trưởng Ban Kinh tế Trương ương cho biết nội dung ý kiến, kiến nghị và đề xuất của các chuyên gia và các nhà khoa học tại diễn đàn sẽ được Tổ biên tập Đề án “Chủ trương, chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” tiếp thu, tổng hợp đầy đủ để xây dựng Đề án trình Ban Chấp hành Trung ương vào năm 2022.

Trong khuôn khổ diễn đàn, hoạt động triển lãm thực tế ảo về các mô hình, sản phẩm, công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, kết quả chuyển đổi số các ngành, lĩnh vực của Việt Nam cũng được diễn ra.

Song hành với các hội thảo và triển lãm, diễn đàn còn là cầu nối về đầu tư công nghệ, tạo cơ hội cho các tập đoàn và tổ chức doanh nghiệp trao đổi trực tiếp, học hỏi kinh nghiệm, tìm kiếm hợp tác, đầu tư về nghiên cứu, sản xuất và ứng dụng các công nghệ số./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục