COVID-19 tác động như thế nào đến nền tảng kinh tế, chính trị ở Nam Á?

Thiệt hại kinh tế sẽ làm tăng mức độ nghèo đói, bất bình đẳng và có khả năng làm trầm trọng hơn thay vì giảm thiểu một số xung đột hiện có.
COVID-19 tác động như thế nào đến nền tảng kinh tế, chính trị ở Nam Á? ảnh 1Người dân đeo khẩu trang phòng dịch COVID-19 khi di chuyển trên phố ở New Delhi, Ấn Độ ngày 11/5/2020. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Viện SWP của Đức đưa tin tại các quốc gia Nam Á, đại dịch COVID-19 lan rộng có thể ảnh hưởng đến hơn 1,9 tỷ người (chiếm gần 1/4 dân số thế giới).

Với những điểm yếu của hệ thống chăm sóc sức khỏe quốc gia, cuộc chiến chống lại dịch COVID-19 đang gặp nhiều khó khăn.

Trong khi đó, thiệt hại kinh tế sẽ làm tăng mức độ nghèo đói, bất bình đẳng và có khả năng làm trầm trọng hơn thay vì giảm thiểu một số xung đột hiện có.

Trong khu vực châu Á, ở phạm vi trong nước, người ta lo ngại rằng xu hướng độc đoán sẽ gia tăng trong quá trình xử lý khủng hoảng và giữa bối cảnh khu vực, Trung Quốc có thể mở rộng hơn nữa ảnh hưởng của mình với chi phí của Ấn Độ.

Hệ thống chăm sóc sức khỏe của các quốc gia Nam Á đang bị thiếu hụt đáng kể và trang bị kém.

Trong khi Sri Lanka dành khoảng 4% Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho hệ thống y tế, thì Ấn Độ chỉ đầu tư 1,28% GDP vào hệ thống chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong năm 2018/19 với chỉ 7 giường bệnh (tính trên 1.000 dân), Pakistan có 6 giường, Bangladesh có 8 giường, con số này là rất thấp so với Trung Quốc là 42 giường và Mỹ 29 giường.

Tất cả các nước trong khu vực đều ở trong tình trạng thiếu thiết bị hô hấp, thiết bị bảo vệ đầy đủ cho các chuyên gia y tế.

Ngoài ra, các cơ sở y tế hiện đại chủ yếu tập trung ở các trung tâm đô thị, trong khi tình trạng ở vùng nông thôn là khá tồi tệ. Sự yếu kém này càng trở nên nghiêm trọng trong cuộc khủng hoảng hiện nay.

Hậu quả về kinh tế

Tăng trưởng kinh tế Ấn Độ đã giảm xuống dưới mức 5% vào cuối năm 2019.

Không chỉ Ấn Độ và Pakistan (hai nền kinh tế lớn nhất trong khu vực), mà cả Bangladesh và Sri Lanka cũng đang ở trong thời kỳ suy thoái kinh tế trước khủng hoảng.

Đại dịch COVID-19 làm cho khủng hoảng càng trở nên trầm trọng.

Các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đã điều chỉnh mạnh mẽ dự báo tăng trưởng của họ đối với các quốc gia Nam Á.

[Thủ tướng Ấn Độ công bố gói kích thích kinh tế trị giá 270 tỷ USD]

Việc đột ngột ngừng hoạt động các ngành công nghiệp chính như sản xuất dệt may ở Bangladesh hay ngành du lịch ở Sri Lanka và Maldives sẽ đẩy nhanh nguy cơ suy thoái kinh tế.

WB dự đoán năm 2020 có thể là năm kinh doanh tồi tệ nhất đối với Nam Á trong hơn 40 năm qua.

Trong khi đó, đại dịch COVID-19 đang tấn công vào các nhóm dân số nghèo. Ở Ấn Độ vào năm 2019, tỷ lệ thất nghiệp đã tăng lên mức cao nhất của nhiều thập kỷ.

Ngoài ra, khoảng 90% nhân viên trong nước (tương đương 450 triệu người) làm việc trong khu vực phi chính thức và không có mạng lưới an sinh xã hội.

Sau khi lệnh giới nghiêm có hiệu lực vào ngày 25/3, nhiều công nhân đã quay trở về quê.

Khi các quốc gia đóng cửa biên giới, nhiều công nhân nhập cư đã bị mắc kẹt và việc thiếu nguồn cung nhân lực đã trở thành một vấn đề xa hơn.

Cuộc khủng hoảng có thể có tác động đặc biệt lớn đến lĩnh vực nông nghiệp, vì đây vẫn là lĩnh vực việc làm lớn nhất ở nhiều thành phố và thường phụ thuộc vào lao động thời vụ hoặc lao động nhập cư.

Nếu những hạn chế ban đầu vẫn tiếp tục mở rộng, người lao động nhập cư sẽ không chỉ mất thu nhập, mà trong nhiều trường hợp còn có thể bị mất mùa và xuất hiện nạn đói ở địa phương.

Khi nền kinh tế đột ngột dừng lại, các vấn đề liên quan sẽ kéo theo như thất nghiệp gia tăng, sự nghèo đói và thiếu hụt nguồn cung.

Chính phủ Ấn Độ ban đầu đã cung cấp 22 tỷ USD để giảm bớt hậu quả kinh tế và nhân đạo trong thời gian ngắn, trong khi các quốc gia khác cũng khởi xướng các chương trình viện trợ của chính phủ.

Một trong số ít tia hy vọng ở Ấn Độ là nhiều gia đình nghèo hiện cũng có tài khoản ngân hàng để chính phủ có thể chuyển trực tiếp các lợi ích xã hội của nhà nước.

Năm 2018, Chính phủ của Thủ tướng Narendra Modi cũng đã đưa ra một chương trình bảo hiểm y tế mới cho các nhóm dân số nghèo hơn.

Tuy nhiên, mặc dù khoảng 2/3 số gia đình Ấn Độ được hưởng viện trợ lương thực từ Hệ thống phân phối công cộng, có đến vài triệu người không có được một chương trình bảo hiểm đúng nghĩa.

Trong khi đó, ở Ấn Độ, cuộc khủng hoảng có thể củng cố xu hướng đang thịnh hành đối với chủ nghĩa bảo hộ.

New Delhi đã tăng thuế hải quan trong những năm gần đây và trong tháng 11/2019, nước này đã không tham gia sáng kiến RCEP (Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện khu vực).

Tác động về chính trị

Người ta dự đoán rằng xu hướng độc đoán và dân túy hiện có ở các quốc gia như Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka sẽ tiếp tục phát triển.

Các biện pháp chống lại đại dịch cũng đang hạn chế các quyền cơ bản ở Nam Á.

Trong khi đó, cuộc khủng hoảng COVID-19 cũng báo hiệu một giai đoạn mới trong cuộc đấu tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc vì ảnh hưởng khu vực ở Nam Á.

Cả hai quốc gia đang giúp đỡ nhau để chống dịch COVID-19. Cuối tháng 2/2020, Ấn Độ đã gửi đồ y tế đến Trung Quốc.

Sau khi cuộc khủng hoảng lan sang Ấn Độ, Trung Quốc đã gửi lại các gói viện trợ rộng rãi, đặc biệt là quần áo bảo hộ cho các chuyên gia y tế.

Để đối phó với cuộc khủng hoảng, Ấn Độ muốn mở rộng ngành công nghiệp dược phẩm, nhưng điều này phụ thuộc nhiều vào hoạt động nhập khẩu của Trung Quốc.

Ấn Độ là nhà sản xuất thuốc Hydroxychloroquine lớn nhất thế giới, loại thuốc ban đầu được xem là phương pháp điều trị đầy hứa hẹn đối với COVID-19 ở một số thành phố.

Chính phủ Ấn Độ ban đầu đã áp đặt lệnh cấm xuất khẩu, nhưng họ lại nới lỏng điều này một lần nữa dưới áp lực từ Chính phủ Mỹ.

COVID-19 tác động như thế nào đến nền tảng kinh tế, chính trị ở Nam Á? ảnh 2Nhân viên y tế chuyển bệnh nhân mắc COVID-19 từ xe cứu thương vào một bệnh viện ở New Delhi, Ấn Độ ngày 27/4/2020. (Nguồn: AFP/TTXVN)

Mặc dù Ấn Độ đã trang bị cho Sri Lanka và Maldives các vật tư y tế, song Trung Quốc lại có nhiều nguồn lực hơn đáng kể và cung cấp hỗ trợ tương ứng lớn hơn cho khu vực. Do đó, cán cân quyền lực ở Nam Á có thể sẽ dịch chuyển nhiều hơn về phía Trung Quốc.

Trong khi đó, mối đe dọa của dịch COVID-19 đã dẫn đến sự hồi sinh của Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC).

Song, tại một cuộc họp trực tuyến của các nguyên thủ quốc gia và chính phủ vào ngày 15/3 do Thủ tướng Ấn Độ Modi tổ chức đã chỉ có sự tham dự của Bộ trưởng Bộ Y tế Pakistan chứ không phải Thủ tướng.

Do đó, có ý kiến cho rằng cuộc chiến chống COVID-19 đã không dẫn đến mối quan hệ tốt đẹp mới giữa hai nước láng giềng.

Sau khủng hoảng COVID-19

Các vấn đề chính trị, kinh tế và nhân đạo ở Nam Á sẽ tiếp tục chiếm lĩnh cộng đồng quốc tế ngay cả sau cuộc khủng hoảng dịch COVID-19.

Tuy nhiên, ngoại trừ Ấn Độ và Pakistan, khu vực này thường nhận được rất ít sự quan tâm của Đức và châu Âu.

Điều này sẽ càng trở nên rõ ràng hơn sau khủng hoảng dịch COVID-19, bởi viện trợ của Đức và châu Âu sẽ tập trung vào các điểm nóng chính sách đối ngoại trong khu vực lân cận.

Sự phát triển kinh tế sẽ chịu một thất bại rõ rệt ở tất cả các quốc gia Nam Á. Từ quan điểm chính trị, điều đáng lo ngại là đại dịch sẽ tăng cường hơn nữa các khuynh hướng độc đoán và tập trung đã có hiệu lực.

Những hạn chế mới được đưa ra về tự do ngôn luận và tự do báo chí, cũng như khả năng tập trung hóa ở mức độ lớn hơn, có thể tồn tại lâu hơn sự kết thúc của đại dịch.

Ngoài ra, trong cuộc đấu tranh vì ảnh hưởng ở Nam Á, Ấn Độ có khả năng mất thêm chỗ đứng trước Trung Quốc./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục