Kết quả 4 năm đổi mới giáo dục qua các con số

Thứ trưởng Trần Quang Quý cho rằng, các giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo trong 4 năm qua đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực.
"Vì lợi ích trăm năm trồng người" - giáo dục là một công việc khó mà lợi ích và kết quả của nó không phải có thể nhận thấy ngay một sớm một chiều. Những quyết sách giáo dục hôm nay có khi phải nhiều năm sau kết quả mới bộc lộ.

Để nhìn nhận rõ nét hơn về những chuyển động của ngành giáo dục trong 4 năm gần đây, từ khi bắt đầu cuộc vận động "Hai không", TTXVN đã phỏng vấn Thứ trưởng Bộ Giáo dục Đào tạo, Phó giáo sư Trần Quang Quý.

- Thưa Thứ trưởng, có ý kiến cho rằng hệ thống giáo dục của chúng ta chậm đổi mới, tình trạng này diễn ra nhiều năm liền mà chưa được cải thiện. Phải chăng ngành giáo dục chưa có được giải pháp mang tính đột phá và có hiệu quả cao?

Thứ trưởng Trần Quang Quý: Từ năm 2006 đến nay, nhiều giải pháp đã được toàn ngành triển khai thực hiện, trong đó có những giải pháp mang tính đột phá là chống tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục; nói không với đào tạo không theo nhu cầu xã hội... Gần đây nhất là cuộc vận động lớn về đổi mới quản lý giáo dục đại học.

Tôi cho rằng các giải pháp đổi mới giáo dục và đào tạo đã được triển khai trong gần 4 năm qua là đúng hướng, phù hợp quy luật, vừa có nhiều giải pháp tác động trên diện rộng, đồng thời luôn có giải pháp có tính đột phá, đã đem lại nhiều chuyển biến tích cực trên hầu hết các lĩnh vực về giáo dục và đào tạo, từng bước giải tỏa các bức xúc của xã hội và đáp ứng các nhu cầu phát triển dài hạn của ngành giáo dục.

- Xin Thứ trưởng cho biết kết quả bước đầu của các giải pháp này trong thực tế 4 năm qua?

Thứ trưởng Trần Quang Quý:
Tôi không muốn nói nhiều chỉ xin nêu vài con số như sau: Qua 4 năm triển khai cuộc vận động "Hai không", trật tự kỷ cương trong thi cử đã tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là thi tốt nghiệp trung học phổ thông.

Số thí sinh bị đình chỉ thi năm 2007 là 2.612 thí sinh, năm 2008: 833 thí sinh, năm 2009: 299 thí sinh và năm 2010: 90 thí sinh, giảm gần 97% so với năm 2007; Số giám thị bị đình chỉ công tác coi thi do vi phạm cũng giảm tương ứng.

Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông tăng trong bối cảnh các cuộc thi được triển khai ngày càng nghiêm túc hơn: năm 2007 tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và bổ túc trung học phổ thông (lần 1) chỉ đạt 66,7%, nhiều địa phương đạt dưới 50% (năm 2006 đạt 94%); năm 2008 (lần 1) tỷ lệ tốt nghiệp là 76%; năm 2009 tỷ lệ tốt nghiệp là 83,8% (không tổ chức thi tốt nghiệp lần 2), tăng 7,8% so với năm 2008. Với kết quả thi đã được qua 3 năm 2007, 2008, 2009, như vậy, có thể dự báo kết quả thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2010 sẽ đạt khoảng 90%.

Tỷ lệ học sinh bỏ học giảm đáng kể: học kỳ I năm học 2007-2008 cả nước có 147.000 học sinh bỏ học (chiếm 0,94 %); học kỳ I năm học 2008-2009 còn 86.269 học sinh bỏ học (chiếm 0,56%), giảm 60.736 học sinh, bằng 41% so với năm học trước; học kỳ I năm học 2009-2010 còn 75.531 học sinh bỏ học (chiếm 0,51%).

Như vậy, năm học 2009-2010, số học sinh bỏ học giảm 71.474 em, bằng 49% so với năm 2007. Tức là tỷ lệ học sinh bỏ học từ gần 1% năm 2007 xuống còn 0,5% năm 2010.

Các vụ việc vi phạm đạo đức nhà giáo đã giảm rõ rệt: năm 2007 có 200 vụ, năm 2008 còn 122 vụ, năm 2009 còn 24 vụ, chỉ bằng 12% của năm 2007. Các vụ xâm phạm thân thể học sinh cũng giảm: năm 2008 có 28 vụ, năm 2009 còn 8 vụ, bằng 29% năm trước.

Việc cải tiến và tự làm đồ dùng dạy học được đẩy mạnh, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học đã phổ biến ở tất cả các tỉnh, thành phố, đổi mới phương pháp dạy học các môn ngữ văn, lịch sử, địa lý, giáo dục công dân được triển khai tập trung, thiết thực.

Bên cạnh đó, 2 năm qua Bộ Giáo dục và Đào tạo còn phát động Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” với sức lan toả mạnh mẽ: toàn ngành đã nhận chăm sóc 2.063 di tích lịch sử cấp quốc gia; 15.810 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, gia đình thương binh liệt sĩ; trồng mới được hơn 2,2 triệu cây xanh; hơn 8.000 nhà vệ sinh được xây mới, nâng tổng số trường có công trình vệ sinh là 38.893 trường đạt 96,7% tổng số trường trong cả nước.

Cơ sở vật chất được nâng cấp với tốc độ cao nhất từ trước đến nay: năm 2006 tỷ lệ phòng học được kiên cố chiếm 52%; năm 2010 số phòng học đã hoàn thành đưa vào sử dụng là 41.695 phòng (đạt 72,4% kế hoạch); số phòng học đang xây dựng là 14.088 phòng (đạt 24,5% kế hoạch).

- Có vẻ như chúng ta mới tập trung vào các giải pháp dành cho giáo dục phổ thông, trong khi giáo dục đại học và nghề nghiệp cũng có vai trò rất quan trọng quyết định chất lượng nguồn nhân lực đất nước?

Thứ trưởng Trần Quang Quý: Chúng tôi luôn xác định vị trí hàng đầu của giáo dục đại học. Vì thế, ngay từ cuối năm 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định triển khai chủ trương “Đào tạo theo nhu cầu xã hội”. Đây là một chủ trương mang ý nghĩa thay đổi về triết lý giáo dục.

Đến nay, bộ đã tổ chức 17 hội nghị quốc gia đào tạo theo nhu cầu xã hội cho các ngành kinh tế xã hội trọng điểm, qua đó hơn 600 thỏa thuận, hợp đồng đào tạo giữa các trường đại học, cao đẳng và doanh nghiệp, bệnh viện và ngân hàng đã được ký kết với số người được đào tạo là trên 10.000 người.

Từ năm 2009, bộ đã thành lập Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực nhằm hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp, các địa phương, các ngành, là đầu mối tiếp nhận nhu cầu và hỗ trợ triển khai đào tạo theo đặt hàng các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, giáo dục đại học còn tăng cường đào tạo theo chương trình của các đại học có uy tín ở nước ngoài, bằng tiếng nước ngoài: Năm 2006 có 10 chương trình, năm 2010 có 27 chương trình. Bộ đã xây dựng thư viện giáo trình điện tử dùng chung với hơn 1.100 giáo trình và đã có hơn 15 triệu lượt người truy cập. Triển khai và hướng dẫn các cơ sở giáo dục xây dựng và công bố chuẩn đầu ra của các chương trình đào tạo trình độ đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp cả nước.

Đặc biệt năm 2009, bộ đã chọn khâu đột phá là đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học giai đoạn 2010-2012, trong đó giải pháp đầu tiên là thực hiện 3 công khai tại mỗi cơ sở giáo dục: công khai cam kết chất lượng đào tạo và đánh giá chất lượng đào tạo; công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo; công khai tài chính tại 100% các trường đại học, cao đẳng. Đồng thời, tăng cường năng lực lãnh đạo cho hơn 500 lượt hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường đại học, cao đẳng thông qua chương trình mới được xây dựng.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành chương trình hành động về đổi mới quản lý giáo dục đại học 2010-2012 với 11 nhóm giải pháp và ban hành mới 23 văn bản quản lý nhà nước của ngành và Bộ về quản lý giáo dục đại học.

Mới đây, Bộ đã tổ chức Hội nghị triển khai Chỉ thị này qua 6 cầu truyền hình (Hà Nội, Thái Nguyên, Vinh, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ); chỉ đạo 8 trường đại học tại 3 miền tổ chức 8 hội thảo điểm.

Đến nay, gần 100% các trường đã thực hiện việc thảo luận ở cấp lãnh đạo trường về các giải pháp đổi mới quản lý của nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo; xây dựng Chương trình hành động và Chiến lược phát triển nhà trường giai đoạn 2011-2015.

Diễn đàn: “Vì sao phải nâng cao chất lượng đào tạo, làm gì để nâng cao chất lượng đào tạo” đã thu hút 34 bài viết của các cán bộ quản lý các nhà trường, các nhà khoa học, giảng viên đại học, các vị tướng lĩnh, lãnh đạo các nhà trường. Có thể nói cuộc vận động này đang thu hút sự chú ý và có khả năng tập hợp trí tuệ của đông đảo trí thức trong và ngoài trường đại học.

Với những giải pháp đúng hướng và quyết tâm của toàn ngành, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất mong có được sự đồng thuận và ủng hộ mạnh mẽ của toàn xã hội để tạo nên những chuyển động mạnh mẽ về sự nghiệp giáo dục.

- Xin trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!/.

Huy Bình (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục