Khu vực Đông Nam Á có nên tính đến việc sở hữu hạt nhân?

Ông Lý Hiển Long, Thủ tướng Singapore và là người điều phối quan hệ quốc tế của khu vực, cũng đã tỏ ra lo lắng về nguy cơ của một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân mới trong khu vực.
Khu vực Đông Nam Á có nên tính đến việc sở hữu hạt nhân? ảnh 1Ảnh minh họa. (Nguồn: thestar.com.my)

Tại một hội nghị của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) gần đây, Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã đưa ra một loạt cảnh báo.

Phát biểu với tư cách là Chủ tịch khối khu vực năm nay, ông Hunsen cảnh báo: “Môi trường thế giới hiện tại thật khó dự đoán, thế giới đang chia rẽ trong khi chiến tranh hạt nhân hoặc Chiến tranh thế giới thứ ba có thể nổ ra vì các quốc gia đang đe dọa lẫn nhau”.

Vài tháng trước đó, ông Lý Hiển Long, Thủ tướng Singapore và là người điều phối quan hệ quốc tế của khu vực, cũng đã tỏ ra lo lắng về nguy cơ của một cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân mới trong khu vực.

Trả lời phỏng vấn độc quyền của tờ Nikkei trước khi lên đường đến Tokyo để tham dự Hội nghị quốc tế về tương lai châu Á, ông Lý Hiển Long nói: “Ở Nhật Bản và Hàn Quốc, các vấn đề nhạy cảm đang được đưa ra công khai, bao gồm cả việc có cho phép triển khai vũ khí hạt nhân trên đất của họ hay thậm chí tiến thêm một bước nữa và xây dựng khả năng phát triển các loại vũ khí đó. Nhưng nếu chúng ta chỉ nhìn vào an ninh khu vực từ góc độ của các quốc gia riêng lẻ, chúng ta có thể chứng kiến một cuộc chạy đua vũ trang và một kết quả không ổn định”.

Năm 1995, các đại biểu từ khắp Đông Nam Á đã nhóm họp tại Bangkok để ký Hiệp ước khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ), còn được gọi là “Hiệp ước Bangkok”.

Hiệp ước này thể hiện một cam kết không “phát triển, sản xuất hoặc mua bán, sở hữu hoặc có quyền kiểm soát vũ khí hạt nhân; lưu trữ vũ khí hạt nhân; hoặc thử nghiệm hoặc sử dụng vũ khí hạt nhân ở bất kỳ đâu bên trong hoặc bên ngoài khu vực của hiệp ước”.

Gần ba thập kỷ sau, cuộc chiến ở Ukraine đã mang đến một kỷ nguyên hạt nhân mới. Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân (TPNW), có hiệu lực vào năm ngoái và kêu gọi bãi bỏ vũ khí hạt nhân, dường như yếu hơn bao giờ hết.

Không lâu sau cuộc xung đột với Ukraine, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cảnh báo rằng bất kỳ quốc gia nào can thiệp sẽ phải đối mặt với hậu quả “như bạn chưa từng thấy trong toàn bộ lịch sử của mình”. Đây được coi là một mối đe dọa tiến hành một cuộc tấn công hạt nhân, một quan điểm được ủng hộ sau khi Tổng thống Putin đặt các lực lượng răn đe hạt nhân trong tình trạng báo động.

NATO, liên minh an ninh phương Tây, sau đó đã tỏ rõ sự lo ngại. Một số chuyên gia cho rằng mối đe dọa hạt nhân của Tổng thống Putin có nghĩa là các nền dân chủ phương Tây đã hạn chế hỗ trợ vật chất của họ cho Ukraine.

Điều này có hai tác động đáng lo ngại đối với châu Á. Một là các quốc gia sở hữu hạt nhân như Pakistan và Triều Tiên sẽ ngày càng yên tâm rằng họ đã đưa ra quyết định chính xác trong việc không từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân của mình trước áp lực của phương Tây.

Kiev đã đồng ý từ bỏ vũ khí hạt nhân từ thời Liên Xô vào năm 1994 trước cam kết rằng Nga, Anh và Mỹ sẽ duy trì sự toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Việc Nga sáp nhập bán đảo Crimea vào năm 2014 và cuộc xung đột vũ trang vào tháng 2 năm nay đã khiến lời hứa đó trở nên nhạt nhòa. Nhiều người suy đoán rằng nếu Ukraine vẫn có những vũ khí hạt nhân đó, ông Putin có lẽ sẽ không bao giờ dám tấn công.

Hàm ý thứ hai là các quốc gia được trang bị vũ khí hạt nhân khác giờ đây có thể nghĩ rằng họ có thể chỉ cần sao chép vở kịch của Tổng thống Putin. Nếu các nền dân chủ phương Tây hoặc các đối thủ địa phương trở nên quá nghiêm trọng, tất cả những gì họ phải làm là đe dọa một cuộc tấn công hạt nhân.

Hồi đầu năm nay, Liên hợp quốc cho biết Iran hiện đã có đủ urani làm giàu để chế tạo quả bom đầu tiên của mình. Pakistan đang bổ sung vào kho vũ khí của mình. Trung Quốc đang nhanh chóng mở rộng chương trình hạt nhân trong bối cảnh có nhiều đồn đoán rằng Bắc Kinh sẽ triển khai tàu ngầm hạt nhân ở Biển Đông.

Năm ngoái, một nghiên cứu của Hội đồng Chicago về các vấn đề toàn cầu cho thấy 71% người dân Hàn Quốc được hỏi ủng hộ việc phát triển vũ khí hạt nhân của riêng họ, trong khi 56% ủng hộ việc triển khai vũ khí hạt nhân của Mỹ ở Hàn Quốc.

Không một quốc gia Đông Nam Á nào có vũ khí hạt nhân, kết quả của lịch sử như Hiệp ước Bangkok. Nhưng họ đang cân nhắc lại điều đó.

Myanmar giáp biên giới với Ấn Độ, quốc gia trong nhiều thập kỷ đã đe dọa chiến tranh hạt nhân chống lại Pakistan, đối thủ lịch sử và một quốc gia hạt nhân khác chỉ cách Đông Nam Á vài nghìn kilomét. Myanmar, Lào và Việt Nam đều có biên giới với Trung Quốc, một cường quốc hạt nhân từ năm 1964.

Ngày nay Đông Nam Á có nguy cơ cao hơn do hệ quả không mong đợi từ một cuộc chiến tranh hạt nhân?

Căng thẳng giữa Trung Quốc và Đài Loan đang lên đến đỉnh điểm. Các chuyên gia ở Washington gần đây đã kết luận rằng xung đột Mỹ-Trung về vấn đề Đài Loan có thể nhanh chóng leo thang và có thể biến thành cuộc chiến tranh hạt nhân.

Báo cáo của Bộ Quốc phòng Mỹ năm 2021 về sức mạnh của quân đội Trung Quốc cho biết: “Một số sỹ quan quân đội Trung Quốc đã thảo luận về việc sử dụng vũ khí hạt nhân trước tiên trong các trường hợp như khi một cuộc tấn công thông thường đe dọa đến sự tồn vong của lực lượng hạt nhân PLA.”

Tuy nhiên, khu vực đã biết được mối đe dọa này trong nhiều thập kỷ. Bà Hoo Chiew-Ping, giảng viên cao cấp về quan hệ quốc tế và nghiên cứu chiến lược tại Đại học Quốc gia Malaysia, nhận xét: “Đông Nam Á đã phải đối mặt với Trung Quốc và Ấn Độ được trang bị vũ khí hạt nhân kể từ những năm 1960. Rủi ro lớn hơn đối với Đông Nam Á hiện nay là việc các cường quốc và các quốc gia nhỏ hơn không cam kết với Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT) nhằm mục đích ngăn chặn các mối đe dọa tiềm tàng bị các cường quốc nước ngoài lật đổ bằng cách thiết lập một chương trình vũ khí hạt nhân, với Triều Tiên là ví dụ thành công.”

Một hiệp ước an ninh được ký kết vào năm ngoái giữa Mỹ, Anh và Australia, được gọi là AUKUS, làm tăng thêm mối lo ngại mới về sườn phía Nam của Đông Nam Á. Theo thỏa thuận của AUKUS, Mỹ và Anh sẽ hỗ trợ Australia mua tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân.

Hầu hết những người trả lời trong cuộc khảo sát mới nhất về tình trạng của Đông Nam Á, được Viện ISEAS-Yusof Ishak của Singapore công bố vào đầu năm nay, cho rằng AUKUS sẽ giúp cân bằng sức mạnh quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc. Nhưng 22,5% nói rằng AUKUS sẽ làm leo thang cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, còn 12% cho rằng liên minh này “sẽ làm suy yếu chế độ không phổ biến vũ khí hạt nhân.”

Canberra cho biết họ không có ý định mua vũ khí hạt nhân, nhưng họ đã không phê chuẩn TPNW và một số người nghi ngờ về điểm “các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân mà lại không có vũ khí hạt nhân.”

Cho đến nay, không có vụ tai nạn nghiêm trọng nào trong khu vực, nhưng năm ngoái, tàu ngầm USS Connecticut, một tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân của Mỹ, đã đâm vào một ngọn núi ngầm mà chưa từng được biết đến ở Biển Đông. Washington vốn dĩ rất kín tiếng về những gì đã thực sự xảy ra.

Các quốc gia Đông Nam Á bị giới hạn bởi Hiệp ước Bangkok. Một số nước thậm chí còn ghi vào hiến pháp rằng họ không được sở hữu vũ khí hạt nhân. Nhưng điều đó đã không ngăn được các chính trị gia trong khu vực cân nhắc về việc thay đổi quan điểm.

Năm 2020, Bộ trưởng điều phối các vấn đề hàng hải và đầu tư của Indonesia, ông Luhut Pandjaitan, đã nhớ lại cảm giác bị các quan chức Mỹ coi thường trong một cuộc họp, nhưng lại sợ hãi trước Trung Quốc và Triều Tiên được trang bị hạt nhân. Ông Pandjaitan nói: “Tôi nghĩ trong đầu, có lẽ chỉ khi chúng ta có sức mạnh hạt nhân thì mới khiến người khác sợ hãi.”

Hầu hết các chính phủ trong khu vực hiện đang cân nhắc việc phát triển năng lượng hạt nhân dân sự, đặc biệt là khi giá dầu và khí đốt toàn cầu tăng cao do chiến tranh Nga-Ukraine và khi các nước tìm cách đẩy mạnh các hành động biến đổi khí hậu.

Ông Philip Andrews-Speed, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Viện nghiên cứu năng lượng thuộc Đại học Quốc gia Singapore, cho biết: “Một số quốc gia ở Đông Nam Á đang có quan điểm hoặc sắp có thể đưa ra quyết định chính thức về việc bắt tay vào chương trình hạt nhân dân sự.”

Ông nói thêm Philippines có thể đã đưa ra quyết định này sau khi Tổng thống Ferdinand Marcos Jr cam kết thúc đẩy năng lượng hạt nhân. Vào tháng 2 năm nay, ông Rodrigo Duterte, người tiền nhiệm của ông Marcos Jr, đã ký một sắc lệnh hành pháp để đưa năng lượng hạt nhân vào hệ thống năng lượng của đất nước và khi Manila chuyển sang loại bỏ dần các nhà máy nhiệt điện than.

Điều này có thể dẫn đến việc tái khởi động nhà máy điện hạt nhân Bataan không hoạt động từ lâu và được xây dựng dưới thời nhà độc tài quá cố Ferdinand Marcos - cha của đương kim tổng thống.

Nhà máy trị giá 2,2 tỷ USD được hoàn thành vào những năm 1980 nhưng chưa bao giờ mở cửa vì lo ngại về an toàn, đặc biệt là sau thảm họa Chernobyl ở Ukraine năm 1986, cùng năm ông Ferdinand Marcos bị lật đổ khỏi quyền lực.

Indonesia và Malaysia cũng đã cân nhắc tương lai hạt nhân của họ trong nhiều thập kỷ. Một dự thảo luật tại Quốc hội Indonesia có thể cho thấy nước này sẽ có nhà máy điện hạt nhân đầu tiên vào năm 2045. Hiện tại, Kuala Lumpur ủng hộ nhiệt tình hơn cho kế hoạch điện hạt nhân sau khi bị chính phủ tiền nhiệm Mahathir Mohamad phản đối.

Ông Andrews-Speed lưu ý, dưới thời chính phủ chịu ảnh hưởng của quân đội, Thái Lan “rất im lặng về hạt nhân, mặc dù họ có chuyên môn”.

Cũng như ở nhiều nơi trên thế giới, các cuộc tranh luận đang diễn ra trên khắp Đông Nam Á về việc liệu hạt nhân có phải là giải pháp thay thế tốt hơn cho năng lượng tái tạo hay liệu khu vực này có nên gắn bó với gió, năng lượng Mặt Trời và thủy nhiệt hay không.

Việt Nam gần đây đã trở thành một trong những nhà đầu tư lớn nhất thế giới vào điện năng lượng Mặt Trời. Lào, nước đã ký một thỏa thuận năng lượng hạt nhân với Nga vào năm 2016, là một nước xuất khẩu thủy điện quan trọng.

Theo ông Andrews-Speed, dựa trên các ví dụ khác, chẳng hạn như ở Anh và Đức, “các quyết định về điện hạt nhân bị ảnh hưởng nhiều bởi hoạt động chính trị, trong đó dư luận đóng vai trò chính phụ thuộc vào bản chất của hệ thống chính trị”.

Ông nói thêm: “Điều đó nói lên rằng, sự kết hợp của nhu cầu năng lượng gia tăng và nhận thức ngày càng tăng về biến đổi khí hậu khiến một hoặc nhiều quốc gia thành viên ASEAN sẽ bắt đầu xây dựng một hoặc nhiều nhà máy điện hạt nhân trong 10 năm tới”./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục