Luật về chống rửa tiền có đề cập tài trợ khủng bố?

Xem xét tờ trình về Luật phòng chống rửa tiền, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho rằng không nên quy định tài trợ khủng bố trong luật này.
Chiều 4/11, Quốc hội làm việc tại Hội trường, nghe trình bày Tờ trình và Báo cáo thẩm tra các dự án Luật phòng, chống rửa tiền; Bộ luật lao động (sửa đổi); Luật công đoàn (sửa đổi) và Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá.

Làm rõ hơn quan điểm xây dựng Luật phòng, chống rửa tiền

Trình bày Tờ trình, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Nguyễn Văn Bình cho rằng, Dự án Luật phòng chống rửa tiền được ban hành sẽ khắc phục những bất cập của pháp luật hiện hành.

Bên cạnh đó, sau khi trở thành thành viên của WTO, Việt Nam đã tự do hóa giao dịch vãng lai và từng bước tự do hóa các giao dịch vốn nên mức độ kiểm soát đối với các giao dịch chuyển tiền quốc tế đã được nới lỏng hơn. Nếu hệ thống pháp luật về phòng, chống rửa tiền chưa hoàn thiện có thể dẫn tới Việt Nam trở thành nơi tội phạm rửa tiền quốc tế lựa chọn để rửa tiền qua hệ thống tài chính.

Thống đốc nhấn mạnh việc ban hành Luật phòng, chống rửa tiền có điều chỉnh vấn đề tài trợ khủng bố là cần thiết, không chỉ đáp ứng yêu cầu minh bạch nền tài chính quốc gia mà còn thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính, bất động sản, đáp ứng nhu cầu hội nhập và tạo cơ sở pháp lý để tiếp tục hoàn thiện các quy định về phòng, chống rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Thẩm tra dự án Luật phòng, chống rửa tiền, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị làm rõ hơn quan điểm xây dựng luật, nhất là quan điểm về bảo đảm an ninh và lợi ích quốc gia, không gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về phòng, chống rửa tiền là cần thiết, tuy nhiên phải phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Ủy ban Kinh tế cho rằng Luật này chỉ nên điều chỉnh vấn đề phòng, chống rửa tiền bởi tài trợ khủng bố tuy có liên quan đến rửa tiền nhưng gắn kết trực tiếp và mật thiết với hoạt động khủng bố.

Tuy nhiên, vì Luật phòng, chống khủng bố được ban hành sau, để thể hiện sự cam kết của Nhà nước Việt Nam với quốc tế, trong Luật phòng, chống rửa tiền, cần có 1 điều quy định nguyên tắc về phòng, chống rửa tiền liên quan đến tài trợ khủng bố. Ủy ban Kinh tế cũng đề nghị rà soát kỹ lưỡng, cân nhắc chỉ luật hóa các cam kết mang tính nghĩa vụ bắt buộc, phù hợp với thực tế của Việt Nam.

Tiền lương tối thiểu phải hướng đến mục tiêu bảo vệ nhóm lao động yếu thế

Trình bày Tờ trình, Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền nêu rõ những sửa đổi, bổ sung cơ bản trong 17 chương của dự thảo Bộ luật lao động (sửa đổi).

Đáng chú ý là những sửa đổi trong quy định về Hợp đồng lao động so với luật hiện hành như sửa đổi quy định về phân loại hợp đồng lao động, theo đó bỏ giới hạn 36 tháng đối với hợp đồng lao động có thời hạn xác định từ đủ 12 tháng trở lên. Quy định thời hạn (15 ngày) bắt buộc để ký hợp đồng lao động bằng văn bản đối với người lao động làm việc theo loại hợp đồng xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên. Nâng mức tiền lương của người lao động trong thời gian thử việc để bảo đảm quyền lợi cho người lao động (85% so với 70% hiện hành). Quy định cụ thể hơn các trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động; cách tính trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm...

Những sửa đổi, bổ sung trong quy định về tiền lương tập trung vào các vấn đề như tiền lương tối thiểu phải bảo đảm mức sống tối thiểu của người lao động, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và mức tiền lương, tiền công trên thị trường. Quy định nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để người sử dụng lao động áp dụng. Quy định hình thức và chế độ trả lương khi làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, tiền lương ngừng việc, tạm ứng tiền lương khi bị tạm giam, tạm giữ...

Dự thảo bỏ quy định yêu cầu người sử dụng lao động phải đăng ký thang lương, bảng lương với cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, để đảm bảo hài hòa lợi ích của hai bên, Chính phủ hỗ trợ (bằng việc quy định các nguyên tắc) để hai bên xác định hệ thống các mức lương phù hợp để trả công cho người lao động phù hợp với trình độ, điều kiện lao động và mức độ hoàn thành công việc.

Về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, dự thảo quy định thời giờ làm thêm tối đa trong một năm đối với tất cả các nhóm ngành nghề được tăng lên khoảng 360 giờ. Quy định đối với người lao động miền xuôi làm việc ở những vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền tầu xe và tiền lương những ngày đi đường.

Dự thảo nâng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ làm việc trong điều kiện lao động bình thường từ 4 tháng lên 5 tháng. Trước khi hết thời gian nghỉ thai sản theo quy định nêu trên, nếu có nhu cầu và được người sử dụng lao động đồng ý, lao động nữ có thể trở lại làm việc khi đã nghỉ ít nhất 4 tháng cộng lại trước và sau sinh.

Thẩm tra dự án Bộ luật lao động (sửa đổi), Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, tiền lương là vấn đề cơ bản nhất có tính chất quyết định trong các quy định về tiêu chuẩn lao động, có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống mỗi người lao động và gia đình họ. Tiền lương tối thiểu phải hướng đến mục tiêu bảo vệ nhóm lao động yếu thế.

Trong điều kiện hiện tại, cần quy định mức lương tối thiểu vùng nhưng trong tương lai khi nhóm lao động có tay nghề tăng lên, nên hướng đến việc chỉ công bố mức lương tối thiểu đối với nhóm ngành, nghề mà người lao động có khả năng rơi vào tình trạng yếu thế, hạn chế tối đa việc người sử dụng lao động lợi dụng lương tối thiểu như là lương tham chiếu để chi trả tiền lương không hợp lý.

Về hợp đồng lao động, Ủy ban này đề nghị cần xác định mức trần thời gian đối với loại hợp đồng xác định thời hạn để hạn chế khả năng người sử dụng lao động lợi dụng, vi phạm quyền lợi hợp pháp của người lao động, nhất là đối với nhóm lao động giản đơn.

Việc tăng giờ làm thêm cần được tính toán, cân nhắc hợp lý, giới hạn ngành, nghề và độ tuổi, quy định tiền lương làm thêm giờ phải cao hơn và có sự phân biệt làm thêm ban ngày, ban đêm, ngày nghỉ.

Về thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ, theo Ủy ban về các vấn đề xã hội, xu hướng tăng thời gian là quy định tiến bộ, hướng đến mục tiêu bảo vệ thế hệ tương lai và chất lượng giống nòi.

Tuy nhiên cũng phải quan tâm đến các yếu tố khác như tác động đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh để hài hòa lợi ích cả hai bên; nên quy định linh hoạt để phù hợp với điều kiện sống và các nhóm công việc khác nhau bằng việc đưa ra mức sàn tối thiểu...

Làm rõ quyền lợi của người lao động khi tham gia công đoàn

Theo ông Đặng Ngọc Tùng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, dự thảo Luật công đoàn (sửa đổi) còn một số vấn đề có ý kiến khác nhau, liên quan đến địa vị pháp lý của công đoàn; vấn đề đại diện cho người lao động ở cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa có tổ chức công đoàn; vai trò công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đối với công đoàn cơ sở; vấn đề tài chính công đoàn...

Dự thảo đề cập một vấn đề mới là quyền gia nhập và hoạt động công đoàn của người lao động là người nước ngoài. Trong thực tế, quan hệ lao động giữa người lao động là người nước ngoài và người sử dụng lao động bắt đầu có những phát sinh mâu thuẫn nhưng chưa có tổ chức công đoàn bảo vệ họ.

Dự thảo cũng quy định cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp có từ 20 lao động trở lên phải thành lập công đoàn để đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho người lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp.

Về vấn đề tài chính công đoàn, dự thảo quy định các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp đều có nghĩa vụ đóng kinh phí Công đoàn bằng 2% tính trên quỹ tiền lương thực trả cho người lao động, nhằm bảo đảm sự thống nhất, bình đẳng về trách nhiệm của các loại hình doanh nghiệp, hỗ trợ việc thành lập và hoạt động của công đoàn cơ sở, tạo cơ sở pháp lý vững chắc về tài chính bảo đảm cho công đoàn hoạt động thực hiện quyền, trách nhiệm.

Nguồn kinh phí công đoàn tập trung cho việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động; xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định, tiến bộ trong doanh nghiệp; tuyên truyền, giáo dục người lao động nâng cao trình độ kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững.

Thẩm tra dự án, Ủy ban Pháp luật cho rằng, dự thảo Luật cần thể hiện rõ hơn chủ trương không hành chính hóa tổ chức và hoạt động công đoàn; đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn các cấp và công đoàn tại các doanh nghiệp; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của công đoàn cơ sở.

Theo Ủy ban Pháp luật, để công đoàn thực sự có sức hấp dẫn đối với người lao động và tạo được sự đồng tình, ủng hộ của người sử dụng lao động, dự thảo Luật cần làm rõ quyền lợi của người lao động khi tham gia công đoàn, trách nhiệm của tổ chức công đoàn đối với thành viên của mình và cơ chế đại diện, bảo vệ người lao động như thế nào chứ không chỉ quy định về cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn.

Ủy ban Pháp luật cũng tán thành sự cần thiết phải quy định kinh phí bảo đảm cho công đoàn tổ chức và hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và người lao động và tán thành như quy định của dự thảo Luật. Đồng thời, đề nghị cơ quan soạn thảo giải trình căn cứ nào để quy định mức đóng kinh phí công đoàn bằng 2% tổng quỹ tiền lương thực trả cho người lao động.

Ưu tiên bảo vệ lợi ích của sức khỏe cộng đồng

Một vấn đề lớn còn ý kiến khác nhau trong dự thảo Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá là về Quỹ Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá, nâng cao sức khỏe cộng đồng và nguồn hình thành quỹ.

Theo Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến, thành lập Quỹ là giải pháp thiết yếu để huy động đủ nguồn tài chính ổn định, bền vững cho công tác Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá và bảo đảm tính khả thi của Luật.

Việc thành lập Quỹ sẽ bảo đảm cho công tác Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá được thực hiện thường xuyên, lâu dài, chủ động và linh hoạt; huy động sự đóng góp của xã hội cho công tác Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá, mang tính chất xã hội hóa, không lệ thuộc vào ngân sách. Việc thành lập Quỹ phù hợp với quy định của Công ước khung FCTC và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới.

Về nguồn hình thành Quỹ, Chính phủ trình Quốc hội 2 phương án: Một là, trích từ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá. Mức trích bằng 2% trên giá chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt đối với thuốc lá. Hai là, từ khoản đóng góp bắt buộc của người sử dụng thuốc lá và doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu thuốc lá, tính theo mức tuyệt đối trên mỗi bao thuốc lá tiêu thụ tại thị trường Việt Nam.

Theo thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội, đây là một dự án mang đậm tính nhân văn, vừa bảo đảm quyền được bảo vệ sức khỏe của người không hút thuốc lá cũng như quyền và nghĩa vụ của người hút thuốc lá.

Ủy ban này cho rằng, lợi ích từ thuế, việc làm dù có hàng chục ngàn tỷ cũng khó có thể bù đắp những thiệt hại về sức khỏe và tính mạng của người dân. Chính sách vĩ mô phải hướng đến việc ưu tiên bảo vệ lợi ích của sức khỏe cộng đồng, vì lợi ích chung của người dân.

Nguồn lực để Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá là điều kiện quan trọng để thực hiện hiệu quả những chính sách và mục tiêu đặt ra, do đó, Ủy ban ủng hộ việc cần thiết phải tăng cường nguồn lực cho công tác Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá./.

Thanh Hòa (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục