Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không

Mười hai ngày đêm khói lửa trong trận chiến Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không với chiến thắng vang dội bắn rơi 81 máy bay các loại trong đó có 34 máy bay B52, đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ đưa Hà Nội về thời kỳ “đồ đá” đã viết nên bản tráng ca bất tử gây chấn động thế giới.

Chiến thắng Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không đã buộc Mỹ phải xuống thang, ngồi vào bàn đàm phán để ký Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, đồng thời cũng tạo tiền đề cho cuộc tổng tiến công giải phóng hoàn toàn miền Nam năm 1975.

Để làm nên chiến thắng đó, ngoài sự lãnh đạo sáng suốt của Trung ương Đảng, còn là sức mạnh ý chí quyết chiến, quyết thắng, sự xả thân chiến đấu cho hòa bình, độc lập của quân và dân Việt Nam. Trong đó, góp phần không nhỏ để giữ bầu trời Hà Nội trong những ngày đêm khốc liệt ấy là những trận địa lửa: Trận địa của quân và dân Hà Nội với ý chí và lý tưởng chiến đấu quật cường.

Trận chiến 12 ngày đêm “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” diễn ra thế nào?

Cách đây 45 năm, Mỹ mở cuộc tập kích chiến lược bằng không quân vào Hà Nội và các thành phố lớn ở miền Bắc, hòng xoay chuyển tình thế trên bàn đàm phán Paris. Với ý chí quyết chiến quyết thắng, trong 12 ngày đêm, quân và dân miền Bắc đã đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược, làm nên chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không,” buộc chính quyền Mỹ phải tuyên bố ngừng ném bom đánh phá miền Bắc và ký Hiệp định Paris.

Ngày 17/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon chính thức ra lệnh tiến hành cuộc tập kích đường không chiến lược vào miền Bắc nước ta với tên gọi chiến dịch “Linebacker II.”

Máy bay ném bom Mỹ F105 Thunderchief thả bom xuống miền Bắc Việt Nam.
Máy bay ném bom Mỹ F105 Thunderchief thả bom xuống miền Bắc Việt Nam.

Vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 17/12/1972, ngay khi Tổng thống Nixon ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã trên miền Bắc, quân và dân toàn miền Bắc đã vào trạng thái sẵn sàng chiến đấu, quyết tâm đánh bại cuộc tập kích đường không chiến lược của đế quốc Mỹ.

Đêm 18 rạng ngày 19/12: những trận đánh đầu tiên, hạ gục tại chỗ “Siêu pháo đài bay B.52” – thần tượng của không lực Mỹ.

Suốt đêm 18 đến rạng ngày 19/12, quân Mỹ huy động 90 lần chiếc B.52 ném 3 đợt bom xuống thủ đô Hà Nội. Xen kẽ các đợt đánh phá của B.52 có 8 lần chiếc F.111 và 127 lần máy bay cường kích, bắn phá các khu vực nội ngoại, thành.

Trong đêm đầu tiên Mỹ đã ném khoảng 6.600 quả bom xuống 135 địa điểm thuộc thủ đô Hà Nội, 85 khu vực dân cư bị trúng bom, làm chết 300 người. Quân và dân ta đã anh dũng chiến đấu, bắn rơi 6 máy bay các loại, trong đó có 2 máy bay B.52 rơi tại chỗ.

Trận địa pháo cao xạ phối hợp nhịp nhàng, quật tan xác pháo đài bay B.52 của Mỹ. (Nguồn: TTXVN)
Trận địa pháo cao xạ phối hợp nhịp nhàng, quật tan xác pháo đài bay B.52 của Mỹ. (Nguồn: TTXVN)

Ngày 20/12: bằng 19 viên đạn 14,5 mm đã bắn rơi 1 máy báy F.111

21 giờ ngày 20/12, tại Trận địa Vân Hồ (Hà Nội), các chiến sỹ Đại đội tự vệ của 3 nhà máy (Cơ khí Mai Động, Gỗ Hà Nội và cơ khí Lương Yên), bằng 19 viên đạn 14,5 mm đã bắn rơi 1 máy báy F.111 của địch. Cũng trong ngày 20/12, bộ đội tên lửa phòng không bảo vệ Hà Nội đã thực hiện trận đánh xuất sắc, chỉ 35 quả đạn, bắn rơi 7 chiếc B.52 (có 5 chiếc rơi tại chỗ).

Ngày 21/12: với 6 quả đạn đã bắn rơi 4 chiếc B.52

Rạng ngày 21/12, chỉ trong 9 phút (từ 5 giờ 2 phút đến 5 giờ 11 phút), các tiểu đoàn (57, 77, 79) với 6 quả đạn đã bắn rơi 4 chiếc B.52 (3 chiếc rơi tại chỗ).

Ngày 23/12: Bộ đội phòng không Hải Phòng lập công xuất sắc

Trong trận đánh rạng sáng ngày 23-12, Bộ đội phòng không Hải Phòng lập công xuất sắc, Tiểu đoàn 82 (Đoàn Hạ Long) ở trận địa An Lão bắn rơi 1 chiếc B.52.

Ngày 24/12: chiến công đầu của quân và dân Thái Nguyên

Ta bắn rơi 5 máy bay: 1 chiếc B.52, 2 chiếc F4, 2 chiếc A7. Trong đó, bắn rơi “Siêu pháo đài bay B.52” vào đêm 24-12 là chiến công đầu của quân và dân Thái Nguyên.

Chiến thắng ngày 26/12/1972 đã làm suy sụp hẳn tinh thần và ý chí của giới cầm quyền và giặc lái Mỹ

Ngày 26/12: trận đánh then chốt

Cao điểm nhất là ngày 26/12, lúc 22 giờ 05 phút đến 23 giờ 20 phút, địch sử dụng 105 lần chiếc máy bay B.52 và 110 lần chiếc máy bay chiến thuật hộ tống, đánh ồ ạt, liên tục, đồng thời từ nhiều hướng và tập trung một đợt vào nhiều mục tiêu ở 3 khu vực Hà Nội, Hải Phòng và Thái Nguyên.

Lực lượng phòng không ba thứ quân của Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên đã đánh một trận tiêu diệt lớn, bắn rơi 8 máy bay B.52 (riêng Hà Nội bắn rơi 5 chiếc, trong đó 4 chiếc rơi tại chỗ) và 10 máy bay chiến thuật khác. Trong trận này, lần đầu tiên Quân khu Việt Bắc (Trung đoàn 256) bắn rơi 1 chiếc B.52 chỉ bằng pháo cao xạ 100mm. Đây là trận đánh then chốt, quyết định nhất, bắn rơi nhiều máy bay B.52 nhất trong 9 ngày chiến đấu. Chiến thắng này đã làm suy sụp hẳn tinh thần và ý chí của giới cầm quyền và giặc lái Mỹ.

Ngày 27/12: máy bay Mig21 bắn rơi chiếc B.52 thứ 2

22 giờ 20 phút ngày 27/12/1972, chiến sỹ Phạm Tuân, phi công lái máy bay Mig 21 được lệnh cất cánh bất ngờ từ sân bay Yên Bái, vượt qua hàng rào bảo vệ B.52 của máy bay tiêm kích F4, tiến về hướng đội hình B.52 của địch, tiếp cận mục tiêu ở cự ly gần, bắn rơi chiếc B.52 thứ 2 trong đội hình 3 chiếc của địch.

Ngày 29/12: trận đánh kết thúc thắng lợi 12 ngày đêm

Người dân Thủ đô chăm chú theo dõi tin chiến thắng qua báo chí hàng ngày và các bảng thông tin, trong những ngày Mỹ đánh phá ác liệt cuối tháng 12/1972. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) 
Người dân Thủ đô chăm chú theo dõi tin chiến thắng qua báo chí hàng ngày và các bảng thông tin, trong những ngày Mỹ đánh phá ác liệt cuối tháng 12/1972. (Ảnh: Tư liệu TTXVN) 

Do bị tổn thất nặng nề trong 11 ngày liên tiếp, đến 29/12, máy bay B.52 của địch chỉ đánh một số địa phương vòng ngoài như nhà máy điện Cao Ngạn, Đồng Hỷ và khu vực cây số 4 Bắc Thái Nguyên, khu gang thép Thái Nguyên, khu Trại Cau, Đồng Mỏ (Lạng Sơn), Kim Anh (Vĩnh Phúc) mà không dám tập trung lực lượng ở tọa độ lửa – Hà Nội nữa.

Về phía ta, các tiểu đoàn 72, 78, 79 bố trí ở vòng ngoài tham gia đánh B.52, đã bắn rơi 2 máy bay (1 chiếc B.52, 1 chiếc F4).Đây là trận đánh kết thúc thắng lợi 12 ngày đêm bảo vệ thủ đô Hà Nội nói riêng và miền Bắc nói chung cuối tháng 12/1972.

Trận “Điện Biên Phủ trên không” tháng 12 năm 1972 kết thúc với chiến thắng oanh liệt của quân và dân miền Bắc: bắn rơi 81 chiếc, gồm: 34 chiếc B.52, 5 chiếc F.111A, 21 chiếc F4CE, 4 chiếc A6A, 12 chiếc A7, 1 chiếc F105D, 2 chiếc RA5C, 1 chiếc trực thăng HH53, 1 chiếc trinh sát không người lái 147SC; tiêu diệt và bắt sống hàng trăm phi công Mỹ.

Trước sự thất bại lớn và liên tiếp trong 12 ngày đêm đánh phá miền Bắc, 7 giờ sáng ngày 30/12, Tổng thống Mỹ Nixon buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận họp lại Hội nghị Paris về Việt Nam.

Ngày 27/1/1973 Hiệp định Paris về “chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết.

Điều gì đã làm nên chiến thắng thời đại “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không”?

Chiến thắng “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” là niềm kiêu hãnh, là bài học quý giá về sức sáng tạo, lòng dũng cảm và chiến thuật quân sự chống tiến công hỏa lực đường không của quân và dân ta.

Tiên lượng sớm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Bằng sự mẫn cảm của một nhà chiến lược quân sự thiên tài, với tầm nhìn xa, nắm vững tình hình địch, ta, lường trước thủ đoạn của kẻ thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những tiên lượng từ rất sớm, khoa học và chính xác về âm mưu sử dụng máy bay chiến lược B52 đánh phá miền Bắc của kẻ thù.

Người cùng Trung ương Đảng đã trực tiếp chỉ đạo, định hướng cho quân và dân ta chuẩn bị về tư tưởng, lực lượng, xây dựng thế trận phòng không nhân dân, sẵn sàng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng các loại vũ khí tối tân của địch, bảo vệ vững chắc hậu phương lớn miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo vệ Thủ đô 1966. (Nguồn: bqllang.gov.vn)
Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm các chiến sĩ lực lượng phòng không bảo vệ Thủ đô 1966. (Nguồn: bqllang.gov.vn)

Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu – nguyên Phó Chính ủy Quân chủng Phòng không-Không quân nhớ lại Bác Hồ đã có những dự kiến rất sớm để hình thành chiến thuật đánh thắng B52. Năm 1965, Người nhấn mạnh dù Mỹ có B57, B52 hay B gì đi nữa, ta cũng đánh mà đánh là nhất định thắng. “Các chú muốn bắt cọp phải vào tận hang,” Người nói.

Cuối năm 1967, Bác đã nhận định: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến trước tình hình này càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ chuẩn bị… Mỹ nhất định sẽ thua nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.”

Tinh thần đó đã được quán triệt đến cán bộ chiến sỹ toàn Quân chủng Phòng không-Không quân, trở thành ý chí sắt đá, sáng tạo trong chiến dịch 12 ngày đêm. Không những trong quân đội mà nhân dân cũng quyết tâm tham gia cuộc chiến đấu bảo vệ Hà Nội.

Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu kể thấu hiểu lời dạy của Bác, năm 1966 Quân chủng Phòng không-Không quân đã đưa Trung đoàn 238 bí mật cơ động vào chiến trường Vĩnh Linh nghiên cứu, tìm hiểu quy luật hoạt động, cách đánh phá của B52 để từ đó tìm ra cách đánh thích hợp. Đêm 7/9/1967, Trung đoàn 238 đã tiêu diệt được 2 máy bay B52. Đây là cơ hội để rút kinh nghiệm, biên soạn cẩm nang đánh B52.

Theo Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, phương án tác chiến đánh B52 đã có từ năm 1968 và đến tháng 9/1972, phương án hoàn chỉnh được phổ biến cho cán bộ, chiến sỹ, quyết tâm dám đánh và quyết thắng.

“Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng sẽ đưa B52 ra đánh phá Hà Nội rồi có thua nó mới chịu thua… Mỹ nhất định sẽ thua nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội.” (Chủ tịch Hồ Chí Minh – cuối năm 1967)

Cuối tháng 11/1972, phương án cuối cùng đánh B52 đã được Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và tập thể lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu trực tiếp thông qua, sau đó được Đại tướng Võ Nguyên Giáp phê chuẩn.

“Từ đó, chúng tôi lập kế hoạch đánh B52 và hoàn toàn chủ động. Đêm 18/12, lúc 19 giờ 15 phút, được tin B52 cất cánh từ đảo Guam, toàn thể quân chủng và nhân dân sẵn sàng.”

20 giờ 13 phút, Tiểu đoàn 59 tên lửa thuộc Trung đoàn 261 đã bắn rơi chiếc B52 đầu tiên, rơi ở cánh đồng Chuôm, Phù Lỗ, Kim Anh (nay là Sóc Sơn, Hà Nội). Tiểu đoàn 77 thuộc trung đoàn 257 bắn rơi B52 tại chỗ. Đêm 18/12, toàn quân chủng và nhân dân đánh thắng B52 trận đầu, lập nên “Điện Biên Phủ trên không.”

Chiến thắng Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không là thắng lợi về chính trị, quân sự, ngoại giao, khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại cũng như tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết thắng, sức sáng tạo của cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Chiến thắng này cũng thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó của nhân dân thủ đô Hà Nội và đồng bào cả nước, cùng với sự ủng hộ, động viên của bạn bè quốc tế, nhất là Liên Xô đã giúp đỡ ta về tên lửa, radar, không quân, cán bộ kỹ thuật.

“Không sợ bị bắn rơi, chỉ lo B52 chạy mất”

Trung tướng Phạm Tuân – Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên phi công đoàn Không quân Sao Đỏ vẫn nhớ như in về “Pháo đài bay B52” – loại máy bay ném bom chiến lược tầm xa, cự ly bay hàng chục ngàn km, mang tới 30 tấn bom, xen kẽ bom tấn, bom tạ, bom bi. Một tốp 3 chiếc B52 có thể san bằng diện tích 2km2.

Vì vậy, máy bay ném bom hạng nặng này được dùng để ném bom chiến lược các mục tiêu diện rộng sân bay, thành phố, trung tâm chính trị, bến cảng và khi bị đánh thì hầu như các mục tiêu bị phá hủy. Bom tấn phá hầm ngầm, bom tạ phá hầm trú ẩn, bom bi sát thương người khi không còn chỗ trú ẩn.

Anh hùng Phạm Tuân trên chiếc máy bay chiến đấu.(Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)
Anh hùng Phạm Tuân trên chiếc máy bay chiến đấu.(Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Ngoài ra, B52 còn sử dụng cả tên lửa, đồng thời, B52 lại được bảo vệ bởi các máy bay tiêm kích đánh vào trận địa tên lửa, ném bom các sân bay không cho tiêm kích của ta cất cánh.

Máy bay B52 được yểm trợ rất mạnh, lại bay ban đêm, gây nhiễu radar, nhiễu mục tiêu… Ngoài ra, bản thân B52 được trang bị tên lửa mồi, nếu MIG 21 của chúng ta bắn tên lửa thì B52 thả tên lửa mồi, chưa kể B52 cũng được trang bị súng phía đuôi có khả năng tiêu diệt máy bay tiêm kích. B52 còn được bảo vệ bằng các máy bay chiến đấu, tiêm kích đánh chặn, đánh ngay vào mục tiêu như sân bay, trận địa tên lửa.

Vị tướng không quân nhớ lại một trong những khó khăn lớn nhất đối với Bộ đội Không quân là khi đó, các sân bay chiến đấu của ta bị phá hủy rất nặng nề. Vì vậy, không quân phải tập bay ở những sân bay ngắn, mới làm ở các nông, lâm trường (sân bay vòng ngoài, sân bay dã chiến), tập bay thấp, bay cao, cất cánh trong những điều kiện khó khăn để có thể tiếp cận nhanh được B52. Những thời điểm như vậy đòi hỏi không chỉ ý chí mà cả trí tuệ, sự sáng tạo của Không quân nhân dân Việt Nam.

Trong 12 ngày đêm, Mỹ sử dụng 193 B52 và hơn 1.000 máy bay chiến thuật, trung bình mỗi đêm đánh vào Hà Nội 50-70 lượt B52, cao điểm lên đến 100 lượt B52.

Ngoài ra, mỗi đêm trung bình 300 lượt, cao điểm 450 máy bay chiến thuật đánh phá để yểm trợ. Như vậy, bầu trời Hà Nội, mỗi đêm có 200-300 máy bay, có thể thấy mức độ đánh phá dày đặc như thế nào.

 Máy bay của ta xuất kích tiêu diệt địch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
 Máy bay của ta xuất kích tiêu diệt địch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

“Lúc đó, chúng tôi không sợ bị bắn rơi nhưng mỗi nơi bị chậm đi một chút, mình không đuổi được B52.” – Trung tướng Phạm Tuân nói.

Việc xác định được chính xác vị trí của B52 là rất khó, đòi hỏi sự chủ động của phi công. Để vượt qua, chúng ta cất cánh ở sân bay mà địch không ngờ tới để không bị chặn ở đầu đường băng.

“Tôi cất cánh đêm 17/12, anh Thiều đêm 18/12, mang máy bay về sân bay Cẩm Thủy, không cất cánh ở Hà Nội. Đấy là cách để chúng ta tránh địch chặn đánh ở ngay sân bay.”

Khi lên trời rồi, phi công phải nhanh chóng đi vào điều kiện thuận lợi, phán đoán được F4 thường chặn ở đâu, tầm cao nào để tránh. Từ tất cả những kinh nghiệm đó, xây dựng thành phương án bay để tránh F4.

“Tôi bắn B52 xong rồi mà F4 vẫn ở đằng sau nhưng không làm gì được!.”

Xác máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 21/12/1972. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)
Xác máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 21/12/1972. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Trung tướng Phạm Tuân hồi tưởng: “Khi nhìn thấy B52, không chỉ hồi hộp mà còn lo bởi nếu sơ hở một chút, bật ra đa sớm thì F4 sẽ đuổi theo và bắn, B52 chạy mất. Lúc đó tôi chỉ sợ B52 chạy mất, còn F4 xung quanh rất nhiều, tôi báo về sở chỉ huy còn mình chỉ hướng vào chiếc B52 phía trước, cố gắng làm sao để đạt tốc độ nhanh nhất, dù bay với tốc độ 1.600km/h mà vẫn thấy chậm vô cùng. Đến khi phóng được quả tên lửa đi mới thở phào nhẹ nhõm và lúc ấy thì mặc kệ F4 xung quanh, không còn lo lắng gì nữa.”

Trung tướng Phạm Tuân nhấn mạnh trong chiến dịch này, nhiệm vụ chính, quan trọng nhất của lực lượng Phòng không-Không quân là bảo vệ mục tiêu, chặn máy bay ném bom phá hoại.

“Địch định san phẳng Hà Nội nhưng trong suốt 12 ngày đêm Điện Biên Phủ trên không thì Hà Nội chỉ chịu 2 vệt bom B52. Chính là bởi vì lực lượng Phòng không-Không quân đã đánh B52 khi chúng mới bay vào, còn cách xa Hà Nội. Tất nhiên nếu chúng ta không bắn rơi B52 thì nhiệm vụ bảo vệ mục tiêu cũng không thể hoàn thành.” – Trung tướng Phạm Tuân nói.

Chuyện cuốn “Cẩm nang đánh B52”

Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt – Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Nguyên tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn tên lửa 57 – Sư đoàn Phòng không Hà Nội hồi tưởng cuối tháng 10/1972 diễn ra Hội nghị rút kinh nghiệm cách đánh của bộ đội tên lửa do Tư lệnh Quân chủng chủ trì; các thành phần được mở rộng từ kíp trắc thủ, sỹ quan điều khiển tiểu đoàn trưởng đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn tên lửa.

Hội nghị bàn cách đánh máy bay B52 thực sự như “Hội nghị Diên Hồng.” Trong hội nghị, các kíp chiến đấu thảo luận, tranh luận bàn cách đánh rất sôi nổi, rất tâm huyết, mang cả những tâm tư, vướng mắc từ lâu để cùng nhau giải quyết.

Kết luận hội nghị của Tư lệnh Quân chủng đã làm thỏa mãn những mong chờ của kíp chiến đấu, khích lệ, động viên mỗi pháo thủ hãy nhằm thẳng quân thủ mà bắn, chọn bám sát đúng giải nhiễu B52 mà đánh, nhất định ta sẽ bắn rơi, bắn rơi tại chỗ B52. Cuốn cẩm nang 30 trang bìa đỏ cũng được ra đời từ đây.

Sau hội nghị về phong trào học tập rèn luyện cách đánh B52 của bộ đội tên lửa, ở hầu khắp các trận địa đâu đâu cũng hào hứng, sôi nổi tỏ rõ quyết tâm mới, khí thế mới. Công tác bảo đảm kỹ thuật từ cơ quan đến đơn vị cũng có phong trào thi đua bảo đảm tham số tốt nhất, không dừng ở tham số cho phép. Các phân đội kỹ thuật, các dây chuyền lắp ráp đạn nhất là lắp ráp ban đêm, công tác hậu cần bảo đảm đời sống, hay các nhà máy trung đại tu tên lửa đều hưởng ứng thi đua với đơn vị hỏa lực cùng lập công.

Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt nhấn mạnh: ”12 ngày đêm năm ấy, chúng ta đã chiến đấu với một đối tượng hơn hẳn ta về trang bị vũ khí, khí tài; có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến, là đội quân thiện chiến nhà nghề, có tiềm lực kinh tế lớn. Nhưng với sự đồng lòng, quyết tâm, quyết đánh thắng, chúng ta đã đánh rơi nhiều B52 bắt sống giặc lái ngay từ những đêm đầu của chiến dịch.”

Việc bắn rơi tại chỗ B52 đã khích lệ, củng cố quyết tâm của nhân dân và lực lượng chiến đấu. Những trận sau, đêm sau càng đánh càng thắng, thắng liên tục nhất là những trận then chốt, quyết định.

“Có đêm đánh rơi 7 đến 8 máy bay B52 làm cho bọn giặc lái hoang mang hoảng sợ, Nhà Trắng rung chuyển, Không lực Hoa Kỳ thất bại thảm hại” – Trung tướng Nguyễn Văn Phiệt tự hào.

Đối phó với tác chiến điện tử của địch

Theo Đại tá Nghiêm Đình Tích – Nguyên Đài trưởng đài radar P.35, Trung đoàn 291, Binh chủng Radar, chiến thắng vĩ đại trong chiến dịch phòng không đánh thắng chiến dịch tập kích đường không chiến lược chủ yếu bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng cuối năm 1972 thực chất là thắng lợi của ta trong lĩnh vực tác chiến điện tử vô cùng khó khăn, ác liệt và gian khổ trước cuộc chiến tranh điện tử hiện đại và vũ khí công nghệ cao của không quân Mỹ.

Trong chiến dịch 12 ngày đêm, Không quân Mỹ gây nhiễu ghê gớm hơn nhiều so với chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Tất cả máy bay đều có máy nhiễu công suất lớn. Đặc biệt, mỗi B52 có 15 máy gây nhiễu, hai máy phóng nhiễu giấy bạc. Một tốp B52 có 45 máy, tạo thành nhiễu chồng chéo, dày đặc, đan xen, công suất rất lớn, phạm vi rất rộng.

 Kíp trắc thủ của phân đội 6, bộ đội tên lửa Thủ đô đã chiến đấu dũng cảm, mưu trí góp phần bắn rơi nhiều máy bay B52 của giặc Mỹ. (10/1967). (Ảnh: Hứa Kiểm/TTXVN)
 Kíp trắc thủ của phân đội 6, bộ đội tên lửa Thủ đô đã chiến đấu dũng cảm, mưu trí góp phần bắn rơi nhiều máy bay B52 của giặc Mỹ. (10/1967). (Ảnh: Hứa Kiểm/TTXVN)

Đại tá Nghiêm Đình Tích kể lại khi đó, các phong trào thi đua “vạch nhiễu phát hiện B52,” “luyện quân, lập công,” “phiên ban đoàn viên” với quyết tâm chống nhiễu phát hiện B52, phục vụ vô điều kiện cho các binh chủng hoả lực phòng không đánh thắng trong toàn binh chủng trở thành phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp chưa từng có.

Đại tá Nghiêm Đình Tích tự hào: “Chúng tôi kết hợp nhiều biện pháp để nhiễu B52 nhẹ nhất và tín hiệu B52 rõ nhất. Nói một cách hình ảnh là nổi lên ba đầu tăm thể hiện tín hiệu của từng tốp B52.”

Bộ đội Radar phòng không đã không để Tổ quốc bị bất ngờ, tạo điều kiện cho chỉ huy và các binh chủng bắn rơi 34 B52 và giành thắng lợi to lớn.

Sự giúp đỡ về vật chất quý báu từ Liên Xô và các nước XHCNTheo thống kê của các cơ quan chức năng, từ năm 1965 đến 1972, các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp Việt Nam khoảng hơn 7.000 quả đạn tên lửa SA-75 và 180 Hồng Kỳ, gần 5.000 khẩu pháo cao xạ các loại, gần năm triệu viên đạn pháo cao xạ, hơn 400 máy bay chiến đấu MIG-17, 19, 21, K6, hàng trăm rađa tiên tiến, hiện đại; gần 4.000 chuyên gia quân sự phòng không của Liên Xô.

Nhờ sự giúp đỡ hiệu quả của các nước anh em, mà lực lượng Phòng không miền Bắc được trang bị tương đối mạnh, huấn luyện thuần thục và tổ chức thành một mạng lưới phòng không có tầm thấp (ba thứ quân), tầm trung bình, tầm cao có pháo cao xạ được trang bị khí tài chiến đấu trong mọi thời tiết, ngày, đêm, chiếm 35% tổng số pháo; tên lửa phòng không và máy bay chiến đấu MIG 21 có tốc độ trên tốc độ âm thanh đang được cải tiến. Radar trinh sát và radar dẫn đường cho máy bay số lượng tăng nhiều và chất lượng cũng được cải tiến (P12, P35…), bảo đảm mạng lưới trên không tương đối vững chắc.

Tiếp nhận nguồn chi viện quý báu đó, Việt Nam đưa ngay vào khai thác và sử dụng, trực tiếp phục vụ cho cuộc chiến đấu chống lại hai cuộc chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ gây ra đối với miền Bắc.

Các chuyên gia Liên Xô xem xét xác chiếc máy bay ném bom “B-52” bị bắn rơi ở Hà Nội tháng 12 năm 1972. (Nguồn:  Triển lãm ảnh Thời chiến tranh Việt Nam).
Các chuyên gia Liên Xô xem xét xác chiếc máy bay ném bom “B-52” bị bắn rơi ở Hà Nội tháng 12 năm 1972. (Nguồn:  Triển lãm ảnh Thời chiến tranh Việt Nam).

Với sự nỗ lực cao độ của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, chúng ta đã từng bước xây dựng được lực lượng Phòng không-Không quân mạnh mẽ, khiến chính Mỹ phải kinh ngạc và thừa nhận: Bắc Việt Nam có một trong các hệ thống phòng không có hiệu quả nhất trong lịch sử. Hệ thống này gồm máy bay tiêm kích MIG-17 và sau này thêm MIG-21, các tên lửa đất đối không SA-2, cũng như hàng nghìn vũ khí khác từ pháo 12,7 mm đến pháo 100mm.

Tính đến trước ngày 18/12/1972, ngày đế quốc Mỹ mở đầu cuộc tập kích chiến lược bằng B.52 vào Hà Nội và Hải Phòng, chỉ riêng ở Hà Nội, quân và dân miền Bắc đã xây dựng được 30 trận địa cho tên lửa, hơn 100 trận địa cho pháo cao xạ các loại; mỗi tiểu đoàn tên lửa đều có hơn hai cơ số đạn; hệ số kỹ thuật của tên lửa bảo đảm 100%, của pháo phòng không là 95% và của radar là 96,5%.

Trên chiến trường miền Bắc, từ Nghệ An trở ra, Việt Nam đã tập trung một lực lượng phòng không chủ lực mạnh nhất từ trước cho đến lúc bấy giờ, cho cuộc quyết chiến trên không cuối tháng 12 năm 1972 với Mỹ, bao gồm: ba Sư đoàn Phòng không: 361, 363, 375; 23 tiểu đoàn tên lửa (60%); 13 trung đoàn cao xạ (50%); bốn trung đoàn không quân (100%); bốn trung đoàn rađa (80%); ba trung đoàn, hai tiểu đoàn phòng không của các quân khu Việt Bắc, Hữu Ngạn, Tả Ngạn. Ngoài ra, còn có 346 đội (1.428 khẩu pháo) phòng không của dân quân, tự vệ.

Với khối binh lực này, quân và dân ta đã triển khai thế trận chiến tranh nhân dân đất đối không, đất đối biển đầy hiệu lực; bố trí các lực lượng phòng không, phòng thủ biển ba thứ quân rộng khắp, nhiều tuyến, nhiều khu vực, lấy Quân chủng phòng không-không quân làm nòng cốt, vừa có lực lượng tại chỗ rộng, có lực lượng cơ động mạnh và lực lượng dự bị thích hợp tăng cường cho các hướng, các nhiệm vụ đột xuất; cho phép phát huy được uy lực của mọi loại vũ khí trang bị đánh địch liên tục; kết hợp chặt cả hai phương thức tác chiến tại chỗ rộng khắp của lực lượng phòng không địa phương và tác chiến tập trung hiệp đồng binh chủng của các lực lượng phòng không chủ lực.

Dựa trên thế trận đó, quân và dân miền bắc đã chủ động đánh trả kịp thời và hiệu quả máy bay, tàu chiến Mỹ ngay từ ngày đầu, trận đầu.

Tên gọi “Điện Biên Phủ trên không” xuất hiện từ khi nào?

Đêm 26/12/1972, Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên thắng lớn, 8 chiếc máy bay Mỹ đã bị quân và dân miền Bắc bắn rơi. Riêng Hà Nội bắn rơi 5 chiếc, trong đó có 4 chiếc rơi tại chỗ.

Từ sở chỉ huy tối cao, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã biểu dương các đơn vị lập công và ra lời kêu gọi: “Kẻ địch thua đau và nhất định sẽ bị thất bại hoàn toàn. Nhưng, chúng vẫn ngoan cố kéo dài cuộc tập kích. Các đơn vị hãy bắn rơi nhiều B 52 nữa, hãy giáng cho quân Mỹ một đòn “Điện Biên Phủ” ngay trên bầu trời Hà Nội, Thủ đô thân yêu của chúng ta.”

Theo nhạc sỹ Phạm Tuyên, lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã gây cho ông niềm xúc động sâu sắc, ý nghĩ sáng tác một bài hát “Hà Nội-Điện Biên Phủ” bỗng loé lên trong trí óc ông.

Ngay đêm hôm đó trong căn hầm của Đài Tiếng nói Việt Nam giữa lòng Thủ đô rực lửa chiến đấu, những nốt nhạc, những lời ca hùng tráng tuôn chảy trên trang giấy, dưới ngòi bút nhạc sỹ Phạm Tuyên: “B 52 tan xác cháy sáng bầu trời. Hào khí Thăng Long ánh lên ngời ngời. “Rồng” ta lao vút… Một trận Điện Biên Phủ nay sẽ vùi mộng xâm lăng. Hà Nội ơi…”

Ngay sau đó, bài ca “Hà Nội-Điện Biên Phủ” của nhạc sỹ được đăng trên báo Nhân Dân và được phát hành vào sáng 29/12. Và cũng trong ngày hôm ấy, khi chiến dịch 12 ngày đêm còn đang tiếp diễn, trong chương trình “Tiếng hát gửi về Nam” của Đài Tiếng nói Việt Nam, bài hát đã được phát đi trên làn sóng điện, để rồi tiếp theo những ngày sau đó nó được tung đi muôn phương, đến với bạn bè năm châu, bốn biển.

“Hãy giáng cho không quân Mỹ một đòn Điện Biên Phủ ngay trên bầu trời Hà Nội” – Lời của Đại tướng Võ Nguyên Giáp – “Một Điện Biên Phủ nay vùi mộng xâm lăng, Hà Nội ơi”- lời trong bài hát của nhạc sỹ Phạm Tuyên phải chăng là gợi ý đầu tiên cho sự ra đời cụm từ đặc biệt “Điện Biên Phủ trên không?”

Thực tế diễn ra sau trận thua mang tính chất quyết định trên bầu trời Hà Nội, cũng giống như thất bại của thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 – đế quốc Mỹ đã buộc phải ký Hiệp định Pari ngày 27/1/1973, cam kết tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân Việt Nam, chấp nhận rút hoàn toàn quân viễn chinh Mỹ và các nước phe Mỹ ra khỏi Việt Nam…tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ta tiến lên giành toàn thắng vào mùa Xuân năm 1975.

Tuy nhiên cụm từ “Điện Biên Phủ trên không” đầu tiên được sử dụng khi nào và ở đâu, đã được Bảo tàng Quân chủng Phòng không Không quân cất công tìm kiếm, cho biết: Đó là báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng. Trong số ra ngày 29/12/1972, bên cạnh bài hát “Hà Nội-Điện Biên Phủ” của nhạc sỹ Phạm Tuyên, ở trang 2 có một dòng chữ “Hà Nội đang thắng một trận Điện Biên Phủ trên không.” Như vậy, cái tên “Điện Biên Phủ trên không” đầy hình ảnh và ý nghĩa này đã xuất hiện đầu tiên trên tờ báo Nhân Dân và nó lập tức được giới báo chí trong nước và nước ngoài hưởng ứng sử dụng.

Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” – cũng tức là “chiến thắng B52,” “Chiến thắng 12 ngày đêm” sau này đã nhiều lần được nhắc đến trên các sách, báo, đài phát thanh, đài truyền hình của nhiều nước trên thế giới trong suốt hơn 40 năm qua.