Bảo tồn di sản nghệ thuật làm gốm của người Chăm

ttxvn0906go-1591694104-3.jpg

Nghề làm gốm truyền thống của người Chăm có một vai trò to lớn trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Sản phẩm gốm không thể thiếu trong đời sống, sinh hoạt hằng ngày của mỗi gia đình và trong văn hóa tín ngưỡng của cộng đồng người Chăm.

Gốm Chăm – Sản phẩm thủ công độc đáo và tinh túy

Gốm Chăm hiện nay còn hiện diện chủ yếu ở hai làng là Ligok (Trì Đức, tỉnh Bình Thuận) và Hamu Crok (Bàu Trúc, tỉnh Ninh Thuận). Trong số đó, tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ 12 đến nay, Bàu Trúc được xem là một trong số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất thô sơ từ ngàn xưa.

Toàn bộ quy trình làm gốm của đồng bào Chăm toát lên một giá trị nghệ thuật đặc trưng. Chính nhờ vậy, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển, nhưng gốm truyền thống của người Chăm vẫn tồn tại với thời gian, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm.

Tồn tại từ khoảng cuối thế kỷ 12 đến nay, Bàu Trúc được xem là một trong số rất ít những làng gốm cổ ở Đông Nam Á còn giữ lại cách sản xuất thô sơ từ ngàn xưa.

Hiện nay người Chăm làm gốm với kỹ thuật và quy trình thủ công truyền thống được các gia đình người Chăm nơi đây duy trì qua nhiều đời.

Nghệ nhân gốm Bàu Trúc. Làng gốm Chăm Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận là làng nghề sản xuất gốm có truyền thống lâu đời và tiêu biểu không chỉ ở Việt Nam mà ở khu vực Đông Nam Á. Quy trình làm gốm Chăm Bàu Trúc làm toát lên giá trị nghệ thuật đặc trưng, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển của mình. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)
Nghệ nhân gốm Bàu Trúc. Làng gốm Chăm Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận là làng nghề sản xuất gốm có truyền thống lâu đời và tiêu biểu không chỉ ở Việt Nam mà ở khu vực Đông Nam Á. Quy trình làm gốm Chăm Bàu Trúc làm toát lên giá trị nghệ thuật đặc trưng, dù trải qua bao thăng trầm trong tiến trình phát triển của mình. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

Quy trình làm gốm truyền thống của người Chăm bao gồm nhiều khâu công việc, nhiều công đoạn kết nối với nhau. Đầu tiên là việc chọn đất và lấy đất. Việc xử lý đất trước khi làm gốm quyết định đến chất lượng và hiệu suất sản phẩm sau khi nung.

Sau khi lấy đất về, người ta đập nhỏ thành từng mảnh để lọc bỏ phần đất tạp, chỉ lấy đất sét vàng rồi đem ủ để giữ độ mềm.

Lấy một khối đất vừa đủ, người phụ nữ Chăm uyển chuyển nhào nặn cho đất dẻo ra, sau đó đặt lên một chiếc chum to để tạo khối.

Sản phẩm gốm được chế tác hoàn toàn bằng thủ công “Nắn bằng tay, không bàn xoay.” Nghệ nhân tự đi giật lùi quanh bàn chế tác tạo hình gốm. Do đi quanh chế tác nên cách vuốt gốm của nghệ nhân Chăm là vuốt thẳng, khác với cách vuốt ngang ở các làng gốm có sử dụng bàn xoay.

Với sự khéo léo và kỹ thuật điêu luyện, chỉ cần vài vòng, người thợ đã tạo xong khối cho sản phẩm. Hình dáng sản phẩm sẽ được quyết định bởi việc di chuyển lùi xung quanh của người thợ.

Những sản phẩm gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận) được các nghệ nhân nhào nặn ra bằng những đôi tay khéo léo mà không cần phải dùng bàn xoay để tạo hình, người nghệ nhân sẽ đi vòng quanh rất nhiều lần để tạo ra một sản phẩm gốm. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)
Những sản phẩm gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận) được các nghệ nhân nhào nặn ra bằng những đôi tay khéo léo mà không cần phải dùng bàn xoay để tạo hình, người nghệ nhân sẽ đi vòng quanh rất nhiều lần để tạo ra một sản phẩm gốm. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Sau đó, họ dùng “vòng quơ” chải quanh thân gốm rồi lấy vải cuộn thấm nước quấn vào tay, chà cho mặt ngoài của gốm bóng láng. Tiếp đó là công đoạn trang trí hoa văn.

Những bàn tay thoăn thoắt khắc lên thân gốm những hoa văn mang chủ đề sông nước, các loài thực vật hay hình ảnh thiên nhiên, đất trời và các vị thần trong tín ngưỡng tâm linh của người Chăm…

Sau khi tạo hình, người ta để sản phẩm trong bóng mát đủ 24 tiếng đồng hồ rồi chà mỏng và tiếp tục phơi thêm 7 ngày cho khô hoàn toàn, sau đó mới đem nung. Nhờ vậy, sản phẩm sẽ “chín” kỹ và không bị nứt.

Sản phẩm sau khi chế tác được nung lộ thiên. Điểm khác biệt của gốm Chăm là các sản phẩm được nung lộ thiên hoàn toàn. Tùy theo điều kiện nắng gió cộng với quá trình và kỹ thuật phun màu (chiết xuất từ dầu hạt điều, cây dông…) sẽ cho ra các sản phẩm có màu sắc đặc trưng như vàng đỏ, đỏ hồng, đen xám, vệt nâu lạ và đẹp mắt, thể hiện rõ nét văn hóa Chăm cổ xưa.

Chính bởi được làm hoàn toàn theo phương pháp thủ công như vậy nên những sản phẩm gốm Chăm không chiếc nào giống chiếc nào. Mỗi sản phẩm đều thể hiện phong cách, tay nghề, sự khéo léo và cả tình cảm, tâm trạng của người thợ trong quá trình chế tác sản phẩm.”

Nhiều làng gốm cổ trên thế giới đã mất thế nhưng gốm Chăm Việt Nam vẫn còn tồn tại, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm, xứng đáng được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)
Nhiều làng gốm cổ trên thế giới đã mất thế nhưng gốm Chăm Việt Nam vẫn còn tồn tại, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm, xứng đáng được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Thời gian để nung chín toàn bộ sản phẩm gốm nhanh hay chậm tùy thuộc vào số lượng gốm nhiều hay ít. Với một số sản phẩm mỹ nghệ, nghệ nhân còn sử dụng một số cách tạo màu tự nhiên như rưới, phun nước hạt điều, nước cây thị – trong khi loại tượng nghệ thuật lại có thể được om trấu hoặc củi để tạo những vết loang đen do khói lửa.

Đặc biệt, một đặc trưng quan trọng của gốm Chăm là thế giới tâm linh tín ngưỡng, phong tục, văn hóa Chăm thể hiện qua gốm. Ở Bàu Trúc, chúng ta dễ dàng bắt gặp dáng hình và điệu múa mềm mại của nàng Apsara, vũ điệu thần Shiva qua tượng hoặc phù điêu, các kiểu sinh thực khí linga-yoni, cặp bình đực-cái, điệu múa Chăm, nghệ nhân chơi kèn saranai… cùng những tác phẩm mô phỏng đời sống văn hóa tâm linh khác.

Nghệ thuật gốm – Nét đặc trưng trong văn hóa Chăm

Nói đến nghề thủ công truyền thống của người Chăm thì không thể không nói đến nghề làm gốm hay nói đúng hơn là nghệ thuật làm gốm của họ, bởi đó là một phần tất yếu tạo nên tổng thể văn hóa Chăm.

Các sản phẩm gốm Bàu Trúc đa dạng về mẫu mã và chủng loại. (Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN)
Các sản phẩm gốm Bàu Trúc đa dạng về mẫu mã và chủng loại. (Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN)

Với các nhà nghiên cứu, người Chăm và các di sản văn hóa mà họ để lại luôn bí ẩn và độc đáo đối với hậu thế.

Phó giáo sư-tiến sỹ Shimoka Sakaya, đại diện nhóm nghiên cứu Nhật Bản cho biết, “gốm Chăm và gốm Churu là tương đối giống nhau, ngoài những đặc điểm riêng mang tính địa phương còn có đặc trưng của gốm cổ Sa Huỳnh và gốm cổ khác ở Đông Nam Á. Đó là gốm làm bằng tay không có bàn xoay, có sử dụng bàn đạp bằng tay, hòn kê, kỹ thuật chải, miết láng và nung ngoài trời. Điều đặc biệt, nhiều làng gốm cổ trên thế giới đã mất thế nhưng gốm Chăm Việt Nam vẫn còn tồn tại, giữ được hồn tinh túy và giữ được vẻ đẹp hoang sơ của gốm cổ cách đây hàng trăm năm. Đó là giá trị độc đáo và trường tồn của gốm Chăm, xứng đáng được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Hy vọng một lần nữa gốm Chăm lại hồi sinh và tiếp tục lan tỏa.”

Nói đến nghề thủ công truyền thống của người Chăm thì không thể không nói đến nghề làm gốm hay nói đúng hơn là nghệ thuật làm gốm của họ, bởi đó là một phần tất yếu tạo nên tổng thể văn hóa Chăm.

Giáo sư Leedom Lefferts (Mỹ), người có hơn 20 năm qua điền dã tìm hiểu gốm Chăm, đánh giá cao nghệ thuật làm gốm của phụ nữ Chăm. Nung ngoài trời, không bàn xoay, nặn bằng tay, mỗi sản phẩm là một tác phẩm độc lập, không cái nào giống cái nào, đó là sự khác biệt giữa gốm Chăm với các dòng gốm khác.

Nghệ nhân gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận). Làng gốm Chăm Bàu Trúc là làng nghề sản xuất gốm có truyền thống lâu đời và tiêu biểu không chỉ ở Việt Nam mà ở khu vực Đông Nam Á. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)
Nghệ nhân gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận). Làng gốm Chăm Bàu Trúc là làng nghề sản xuất gốm có truyền thống lâu đời và tiêu biểu không chỉ ở Việt Nam mà ở khu vực Đông Nam Á. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

Tiến sỹ khảo cổ học Đoàn Ngọc Khôi thì cho rằng, có sự tiếp biến trong dòng chảy văn hóa từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa Chăm, nhưng sự độc đáo trong nghề làm gốm của người Chăm còn thể hiện ở chỗ, 300 người ở Bàu Trúc cùng làm một sản phẩm, nhưng nếu đem trộn lẫn vào nhau, sau đó mỗi người vẫn nhận ra “đứa con” của mình. Dấu ấn để lại trong từng sản phẩm của mỗi người luôn hiện hữu.

Còn theo tiến sỹ Atthasit Sukkham (Thái Lan), ông đã bắt gặp trong các đền đài ở vùng đông bắc Thái Lanhàng loạt sản phẩm bằng gốm Chăm. Việc xuất hiện ở những nơi linh thiêng ấy chứng tỏ sự lôi cuốn của các loại gốm người Chăm trong thế giới tâm linh không chỉ ở Thái Lan mà cả vùng Đông Nam Á.

Giáo sư-tiến sỹ Lâm Thị Mỹ Dung, Viện Văn hóa quốc gia khẳng định, trong hành trình tìm kiếm về văn hóa Chăm, đồ gốm sẽ là “chìa khóa” tiếp cận đời sống vật chất và tinh thần của cư dân Chăm. Trong mỗi giai đoạn nhất định, họ tiếp thu thành tựu, kinh nghiệm của giai đoạn trước, trong quá trình giao lưu văn hóa với cộng đồng người xung quanh… gốm Bàu Trúc ngoài đặc điểm riêng mang tính địa phương thì đều mang đặc tính chung của gốm trong khu vực.

Bảo tồn gốm Chăm – Những hướng đi mới

Bàu Trúc (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) được đánh giá là một trong những làng gốm cổ nhất Đông Nam Á. Xuất hiện cách đây khoảng 8 thế kỷ, gốm Bàu Trúc đã tồn tại, phát triển và gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của người Chăm sinh sống tại Ninh Thuận và các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ.

Gốm Chăm là di sản quý giá và đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á, tuy nhiên đến nay gốm Chăm chỉ còn tồn tại ở làng Bàu Trúc (tỉnh Ninh Thuận) và làng gốm Bình Đức (tỉnh Bình Thuận). Bên cạnh hai làng gốm này còn làng gốm Karango- Chu ru (Lâm Đồng) có ảnh hưởng và đồng dạng với gốm Chăm. Trong quá trình hội nhập nghệ thuật làm gốm truyền thống ở ba ngôi làng này có hiện tượng bị mai một. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)
Gốm Chăm là di sản quý giá và đã có một thời kỳ phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á, tuy nhiên đến nay gốm Chăm chỉ còn tồn tại ở làng Bàu Trúc (tỉnh Ninh Thuận) và làng gốm Bình Đức (tỉnh Bình Thuận). Bên cạnh hai làng gốm này còn làng gốm Karango- Chu ru (Lâm Đồng) có ảnh hưởng và đồng dạng với gốm Chăm. Trong quá trình hội nhập nghệ thuật làm gốm truyền thống ở ba ngôi làng này có hiện tượng bị mai một. (Ảnh: Thanh Hà/TTXVN)

Suốt nhiều thế kỷ qua, người Chăm ở làng Bàu Trúc vẫn giữ gìn nguyên vẹn nghề truyền thống của cha ông với những kỹ năng, bí quyết nghề được trao truyền từ thế hệ này sang thế khác. Vì thế, nơi đây được các nhà nghiên cứu, du khách trong và ngoài nước ưu ái gọi là “bảo tàng sống” của gốm Chăm.

Tuy nhiên, nghề gốm Chăm Bàu Trúc cũng đang đứng trước nguy cơ mai một, bởi tác động của nền sản xuất công nghiệp, các sản phẩm gia dụng (đồ đựng, đồ nấu…) hiện đại với vật liệu mới dần thay thế sản phẩm gốm truyền thống.

Để cạnh tranh tồn tại, khi người tiêu dùng có yêu cầu thẩm mỹ cao, làng gốm Bàu Trúc đã phải tìm hướng đổi mới và phát triển.

Làng nghề gốm Chăm này đã tiên phong tìm hướng đổi mới dòng sản phẩm gốm dân dụng, kết hợp phát triển dòng gốm trang trí nhằm tạo sức hút từ thị trường.

Với suy nghĩ phát triển dựa trên nền tảng văn hóa Chăm để giữ nét đặc sắc riêng đồng thời không bó hẹp trong đó, các nghệ nhân gốm Chăm đã phát triển các sản phẩm mới kết hợp các yếu tố văn hóa phương Tây, văn hóa Việt vào trong sản phẩm gốm Bàu Trúc.

Gốm Chăm và gốm Churu là tương đối giống nhau, ngoài những đặc điểm riêng mang tính địa phương còn có đặc trưng của gốm cổ Sa Huỳnh và gốm cổ khác ở Đông Nam Á. Đó là gốm làm bằng tay không có bàn xoay, có sử dụng bàn đạp bằng tay, hòn kê, kỹ thuật chải, miết láng và nung ngoài trời. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)
Gốm Chăm và gốm Churu là tương đối giống nhau, ngoài những đặc điểm riêng mang tính địa phương còn có đặc trưng của gốm cổ Sa Huỳnh và gốm cổ khác ở Đông Nam Á. Đó là gốm làm bằng tay không có bàn xoay, có sử dụng bàn đạp bằng tay, hòn kê, kỹ thuật chải, miết láng và nung ngoài trời. (Ảnh: Trọng Đạt/TTXVN)

Muốn phát triển các sản phẩm gốm không thể bó hẹp mãi trong văn hóa Chăm. Tuy nhiên, việc phát triển phải dựa trên nền tảng văn hóa Chăm để giữ được dáng vẻ và nét đặc sắc riêng. Có như vậy, gốm Chăm Bàu Trúc mới có chỗ đứng vững trên thị trường.

Cùng với việc thay đổi mẫu mã, cải tiến sản phẩm gốm dân dụng, làm gốm Bàu Trúc cũng đẩy mạnh phát triển dòng gốm trang trí, gốm mỹ nghệ, gốm lưu niệm có hàm lượng thẩm mỹ, cho giá trị kinh tế cao như đèn gốm trang trí, đèn ngủ, lọ hoa, bình nước, bình trà, lục bình, tháp nước, các biểu tượng văn hóa phương Tây, văn hóa phương Đông, văn hóa Chăm.

Làng gốm Bàu Trúc hiện có 975 hộ; trong đó, có 300 hộ làm gốm. Nghề làm gốm đang ngày càng phát triển, trong làng có 1 hợp tác xã, 2 công ty và 60 cơ sở sản xuất gốm hoạt động thường xuyên, tạo ra nhiều dòng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu sử dụng gốm trang trí nhà vườn của các gia đình, khách sạn, resort trên toàn quốc.

Không chỉ đổi mới sản xuất, làng gốm Chăm Bàu Trúc còn tìm ra một hướng đi mới nhằm quảng bá sản phẩm – phát triển du lịch cộng đồng.

Trong khuôn khổ dự án Phát triển du lịch cộng đồng dựa vào di sản tại làng Bàu Trúc, do Hội đồng Anh phối hợp với Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Ninh Thuận và địa phương phối hợp triển khai, người dân trong làng đã được hướng dẫn, đào tạo đón tiếp khách du lịch, tiếp thị sản phẩm, dạy khách cách làm bánh và các món ăn truyền thống của người Chăm. Nhờ vậy, thu nhập của người dân có sự cải thiện đáng kể bên cạnh nguồn thu từ các sản phẩm gốm.

Du lịch cộng đồng không chỉ mang lại sinh kế cho người dân mà còn góp phần bảo vệ môi trường, cảnh quan và những giá trị văn hóa bản địa cho làng Bàu Trúc, cũng như bảo vệ nghề truyền thống của đồng bào Chăm ở nơi đây khỏi nguy cơ mai một.

Trải qua nhiều thăng trầm, nghề gốm ở Bàu Trúc tưởng có lúc bị mai một nhưng nay đã khởi sắc với nhiều tín hiệu đáng mừng. Hiện nay, làng gốm Bàu Trúc đang là một trong những điểm đến tham quan nổi tiếng của Ninh Thuận.

Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm làng Bàu Trúc cũng đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể quốc gia, đồng thời trình hồ sơ lên UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp./.

Làng gốm Bàu Trúc ở thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận đang tìm hướng đổi mới dòng sản phẩm gốm dân dụng, kết hợp phát triển dòng gốm trang trí. Trong ảnh: Đèn gốm trang trí của hợp tác xã gốm Chăm Bàu Trúc. (Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN)
Làng gốm Bàu Trúc ở thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, Ninh Thuận đang tìm hướng đổi mới dòng sản phẩm gốm dân dụng, kết hợp phát triển dòng gốm trang trí. Trong ảnh: Đèn gốm trang trí của hợp tác xã gốm Chăm Bàu Trúc. (Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN)