ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

vietcom0-1579438528-15.jpg

LỜI NÓI ĐẦU

Đảng sinh ra vào mùa Xuân và mang đến cho đất nước, dân tộc Việt Nam những mùa Xuân bất tận. Đảng là biểu tượng của mùa Xuân, là người chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi thác ghềnh, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Hãy cùng nhìn lại những chặng đường vinh quang chói lọi trong suốt 90 năm qua của Đảng Cộng sản Việt Nam để thêm yêu, thêm tự hào về đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. VietnamPlus xin trận trọng giới thiệu chùm bài viết tổng hợp về những chặng đường, mốc son lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh.

Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Một mốc son chói lọi

Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Sau bao năm bôn ba khắp năm châu, bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và thực tiễn các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã tìm được con đường tất yếu: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Tháng 6/1925, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội), một tổ chức “quá độ” đặt cơ sở cho một Đảng Cộng sản về sau. Người ra báo Thanh niên, huấn luyện, đào tạo cán bộ, tổ chức tuyên truyền lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng cách mạng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam.

Từ ngày 25-30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của  Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham  dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại  biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc ủng hộ Luận cương của V.I.Lenin về vấn  đề dân tộc và thuộc địa; tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp và  trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là  người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)
Từ ngày 25-30/12/1920, chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc (tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian hoạt động cách mạng ở Pháp) tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours với tư cách đại biểu Đông Dương. Nguyễn Ái Quốc ủng hộ Luận cương của V.I.Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa; tán thành việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)

Bốn năm sau, tháng 3/1929, chi bộ cộng sản đầu tiên ở Việt Nam được thành lập tại nhà số 5D phố Hàm Long, Hà Nội. Chi bộ chủ trương phải tích cực vận động thành lập một Đảng Cộng sản thay tổ chức Việt Nam cách mạng thanh niên để lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Ngày 17/6/1929, hơn 20 đại biểu các tổ chức cộng sản ở các tỉnh Bắc Kỳ họp tại nhà số 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội) quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng. Hội nghị thông qua Chính cương, Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng. Các văn kiện này thừa nhận đường lối của Quốc tế Cộng sản, thừa nhận vai trò bá quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản trong cách mạng và thừa nhận mục đích của chủ nghĩa cộng sản. Mục đích của Đảng là đánh đổ đế quốc và tư sản chủ nghĩa, diệt trừ chế độ phong kiến, giải phóng công nông, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do, bác ái.

Mục đích của Đảng là đánh đổ đế quốc và tư sản chủ nghĩa, diệt trừ chế độ phong kiến, giải phóng công nông, xây dựng một xã hội bình đẳng, tự do, bác ái.

Để nhanh chóng xây dựng cơ sở của mình ở Nam Kỳ, ngày 21/7/1929, Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đông Dương Cộng sản Đảng họp tại Tam Sơn (Bắc Ninh) đề ra chủ trương, biện pháp xây dựng cơ sở trong Nam.

Các chi bộ cộng sản lần lượt được thành lập ở Nam Kỳ, ở Trung Kỳ và ở Xiêm. Các đảng viên hoạt động ở Trung Quốc được tập hợp trong một chi bộ mang tên An Nam Cộng sản Đảng. Chi bộ này được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Trung Quốc và đã liên lạc với Quốc tế Cộng sản. An Nam Cộng sản Đảng ra đời vào tháng 8/1929.

Tháng 9-1929, bản Tuyên đạt của Đông Dương Cộng sản liên đoàn tuyên bố: “chánh thức lập ra Đông Dương Cộng sản liên đoàn,” lấy chủ nghĩa Cộng sản làm nền móng, lấy công, nông, binh liên hiệp làm đối tượng vận động cách mệnh.

Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước.

Trong vòng không đầy bốn tháng (từ giữa tháng 6 đến tháng 9-1929) đã có ba tổ chức đảng ở Việt Nam lần lượt ra đời. Sự ra đời nhanh chóng các tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại ba đảng độc lập có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất trong cả nước. Quốc tế Cộng sản đã gửi thư cho những người cộng sản Đông Dương, nhấn mạnh: Nhiệm vụ tuyệt đối cần kíp của tất cả những người cộng sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản…

Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề liên quan phong trào cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị đại biểu của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để bàn việc thống nhất thành một đảng.

Từ ngày 6/1-7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập  Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hong Kong (Trung  Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế  Cộng sản. (Nguồn: Tranh tư liệu/TTXVN phát)
Từ ngày 6/1-7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam họp ở bán đảo Cửu Long, thuộc Hong Kong (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. (Nguồn: Tranh tư liệu/TTXVN phát)

Từ ngày 6/1 đến đầu tháng 2/1930, Hội nghị họp tại Cửu Long gần Hương Cảng (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí hợp nhất Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng để lập ra một đảng duy nhất lấy tên Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và các Điều lệ vắn tắt của Công hội, Nông hội, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội phản đế đồng minh và Hội cứu tế do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo.

Phải hợp nhất thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể thực hiện cách mạng cộng sản.

Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng đã hợp nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Song Đông Dương Cộng sản liên đoàn vẫn còn là một đảng riêng lẻ. Việc hợp nhất Đông Dương Cộng sản liên đoàn vào Đảng Cộng sản Việt Nam cũng là một yêu cầu khách quan.

Trong bản Tuyên đạt thành lập đảng của mình, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng chủ trương phải hợp nhất với Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng “thành một tổ chức cộng sản ở xứ Đông Dương để cho sức mạnh cộng sản vững chắc và duy nhất mới có thể thực hiện cách mạng cộng sản.” Vì thế, sau Hội nghị hợp nhất, Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã yêu cầu gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX.

Ngày 24/2/1930, Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu cùng hai ủy viên của Ban Chấp hành Trung ương lâm thời là Hạ Bá Cang (tức Hoàng Quốc Việt) và Phạm Hữu Lầu cùng Ngô Gia Tự, Bí thư Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã họp quyết định chấp nhận Đông Dương Cộng sản liên đoàn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đây, cả ba tổ chức cộng sản Việt Nam đã thống nhất trọn vẹn vào một Đảng cộng sản duy nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đảng ra đời là một mốc son chói lọi đánh dấu bước ngoặt lịch sử vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là kết quả tất yếu của sự kết hợp chủ nghĩa Marx-Lenin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở nước ta trong những năm 20 của thế kỷ XX.

(Nguồn: Reuters)
(Nguồn: Reuters)

90 mùa Xuân qua, dù con đường đi lên có lúc quanh co, phức tạp, dù Đảng ta có lúc phạm khuyết điểm, sai lầm, nhưng do có bản lĩnh vững vàng, thực sự khiêm tốn, cầu thị, Đảng ta nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, được nhân dân tin yêu, ủng hộ, cho nên Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, không một thế lực nào ngăn cản nổi.

Đảng đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, không một thế lực nào ngăn cản nổi.

Nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX, mà đỉnh cao là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945; thắng lợi của các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; thắng lợi của công cuộc đổi mới, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Hình ảnh về một Việt Nam mới đầy sức trẻ, tự tin hội nhập với những đô thị hiện đại, nông thôn mới, những khu công nghiệp đang trở thành điểm sáng trên trường quốc tế. Đất nước ta, dân tộc ta tự hào có Đảng quang vinh, sắt son một lòng theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn./.

Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền

Một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.

Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với ba cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn, đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, nắm chính quyền toàn quốc.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của giai cấp công nhân và cách mạng Việt Nam; chứng tỏ giai cấp vô sản Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh đạo trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã có đội tiên phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản với Cương lĩnh chính trị đúng đắn, đưa cách mạng nước ta phát triển theo xu thế của thời đại đã được mở ra từ cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga năm 1917.

– Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh

Ngay từ khi mới ra đời với khẩu hiệu chiến lược “Độc lập dân tộc” và “Người cày có ruộng,” Đảng đã lãnh đạo nông dân và công nhân trong cao trào cách mạng 1930-1931, đỉnh cao là phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh.

Ở những nơi đó, quần chúng cách mạng đã thực hiện quyền làm chủ, đứng ra tự quản lý đời sống của mình, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng ở nông thôn. Lần đầu tiên, nhân dân ta thật sự nắm chính quyền ở địa phương.

Cao trào cách mạng 1930-1931 khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông.

Cao trào cách mạng 1930-1931 khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.

– Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939) – bước chuẩn bị cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám

Mặt trận Dân chủ Đông Dương tổ chức mít tinh kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao  động 1/5 tại Khu Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô),  tháng 5/1938, trong Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939). Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng  đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh,  dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng  chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học  kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm  tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp... (Nguồn: Tư  liệu TTXVN)
Mặt trận Dân chủ Đông Dương tổ chức mít tinh kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 tại Khu Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung Văn hóa Hữu nghị Việt Xô), tháng 5/1938, trong Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936-1939). Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp… (Nguồn: Tư liệu TTXVN)

Cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thời kỳ 1936-1939, Đảng đã giáo dục và xây dựng được một đội quân chính trị to lớn ở nông thôn và thành thị; đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo, hòa bình.

Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp…

Cao trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thời kỳ 1936-1939, Đảng đã giáo dục và xây dựng được một đội quân chính trị to lớn ở nông thôn và thành thị

Qua cao trào này, trình độ và khả năng công tác của cán bộ và đảng viên được nâng cao, đội ngũ cán bộ cách mạng dày dạn kinh nghiệm ngày càng đông đảo. Đây là một bước chuẩn bị của nhân dân ta cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.

– Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939-1945) kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh  đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng  định trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền  hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập.  Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh  và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” Đó cũng là tư tưởng  bất hủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra với cả thế giới ngay khi nước  Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khẳng định trước quốc dân đồng bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.” Đó cũng là tư tưởng bất hủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra với cả thế giới ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. (Nguồn: Tư liệu TTXVN)

Tháng 9/1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, phát xít Nhật kéo vào Đông Dương (1940). Nhân dân ta chịu cảnh “một cổ hai tròng” vô cùng cực khổ. Ngày 9/3/1945, Nhật hất cẳng Pháp. Đảng đã nhanh chóng chuyển hướng chiến lược, đề ra chủ trương tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, đẩy tới cao trào kháng Nhật, cứu nước. Ngày 12/3/1945, Đảng ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta.”

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sỹ và đồng bào yêu nước đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cách mạng Tháng Tám mở ra bước ngoặt vĩ đại, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỷ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội.

Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam – Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc.”

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.

Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã trưởng thành và phát triển về mọi mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức, về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, chống đế quốc và chống phong kiến không ngừng được bổ sung và làm rõ hơn, đặt nhiệm vụ chống đế quốc giải phóng dân tộc lên hàng đầu, vận dụng đúng đắn và có sự phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Marx-Lenin về cách mạng thuộc địa.

Thực tiễn qua 15 năm đấu tranh cách mạng giành chính quyền, Đảng và nhân dân ta đã đặt ra và giải quyết thành công nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cơ bản trong đường lối chiến lược và sách lược, bảo đảm cho phong trào cách mạng phát triển đúng hướng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc./.

Đảng lãnh đạo đấu tranh

Giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước

Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại những kẻ thù sừng sỏ nhất của thế kỷ XX

Để bảo vệ thành quả của cách mạng và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta lại phải tiếp tục chiến đấu 30 năm với hai cuộc kháng chiến trường kỳ đầy hy sinh gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Bằng đường lối cách mạng đúng đắn và tài thao lược của mình, với khối đại đoàn kết dân tộc và ý chí đấu tranh quật cường, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại những kẻ thù sừng sỏ nhất của thế kỷ XX mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu,” tiếp đến là cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử hoàn toàn thắng lợi, Bắc-Nam sum họp một nhà.

– Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945-1954)

Trong những năm 1945-1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.

Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến - Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, đánh dấu thời khắc của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.” (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chiều 7/5/1954, lá cờ “Quyết chiến – Quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, đánh dấu thời khắc của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.” (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Thành công nổi bật của hơn một năm xây dựng chính quyền non trẻ là đã tăng cường được sức mạnh của cách mạng để có thể tự bảo vệ khi chưa có sự giúp đỡ trực tiếp từ bên ngoài.

Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.

Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.”

Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu,” buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 đã chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta, mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

– Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc (1954-1975)

Sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế-văn hóa, xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Geneva, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng.

Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III được tổ chức từ ngày 5-10/9/1960 tại Hà Nội, quyết định đường lối cách mạng XHCN và xây dựng CHXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng chí Lê Duẩn được bầu giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (Nguồn: TTXVN)
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ III được tổ chức từ ngày 5-10/9/1960 tại Hà Nội, quyết định đường lối cách mạng XHCN và xây dựng CHXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đồng chí Lê Duẩn được bầu giữ chức Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng. (Nguồn: TTXVN)

Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật.

Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại.

Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế-xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam; tạo những cơ sở vật chất và những kinh nghiệm quý báu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sau này./.

Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV được tổ chức từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (Nguồn: TTXVN)
Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV được tổ chức từ ngày 14-20/12/1976 tại Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. (Nguồn: TTXVN)

Đảng lãnh đạo thành công

sự nghiệp đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) có tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn, quyết định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Từ đó đến nay, qua các kỳ đại hội, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước luôn được khẳng định, thông qua những thành tựu to lớn của đất nước trong suốt hơn 30 năm qua.

Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả vĩ đại nhất trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 chứa đựng ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại to lớn, kết thúc vẻ vang 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc bảo vệ Tổ quốc, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị kéo dài hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân trên đất nước Việt Nam, hoàn thành về cơ bản cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trên cả nước, non sông thu về một mối.

Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước luôn được khẳng định, thông qua những thành tựu to lớn của đất nước trong suốt hơn 30 năm qua.

Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH, phải đối diện với những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, khu vực và trên trường quốc tế. Nhằm đẩy mạnh công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, Đại hội VI của Đảng đã quyết định sự nghiệp đổi mới, coi đó là cơ sở khoa học để xác định đúng chính sách và cơ chế lãnh đạo, quản lý đất nước. Theo đó, Đảng ta quyết định thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; đồng thời đổi mới chính sách xã hội, hướng vào những giải pháp nhằm cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân.

Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) mở đầu công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy sức mạnh, tiềm năng để đưa đất nước tiến lên. (Nguồn: TTXVN)
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) mở đầu công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy sức mạnh, tiềm năng để đưa đất nước tiến lên. (Nguồn: TTXVN)

Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng, Nhà nước tiếp tục có những quyết sách rất quan trọng để vượt qua khó khăn, thách thức mới nảy sinh, đưa đất nước phát triển, điển hình như: Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội khóa VIII thông qua tháng 12/1987, có hiệu lực từ ngày 1/1/1988, tạo động lực lớn cho thu hút đầu tư vào Việt Nam; Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (năm 1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, giao ruộng đất cho các hộ nông dân sử dụng lâu dài, tạo bước phát triển lớn chưa từng có trong nông nghiệp…

Trong thập niên 90 của thế kỷ XX, công cuộc đổi mới được triển khai tích cực. Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội và Chiến lược ổn định, phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000.

Đại hội xác định đường lối đối ngoại: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Đây là bước phát triển mới về nhận thức lý luận của Đảng. Thời kỳ này, đất nước chuyển mạnh sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đảng đã chỉ rõ 4 nguy cơ lớn: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ tham nhũng và nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1/1994) chủ trương thúc đẩy công nghiệp hóa, hiên đại hóa xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; thực hiện tốt các chính sách xã hội, nhất là xóa đói giảm nghèo, chính sách với người có công. Những vấn đề quan trọng đó tiếp tục được Trung ương bàn sâu và quyết định.

Từ thực tiễn đổi mới, Đảng đã chỉ rõ 4 nguy cơ lớn: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước, nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nguy cơ tham nhũng và nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Trong nhiệm kỳ khóa VIII, Trung ương Đảng quyết định chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học-công nghệ (tháng 12/1996); chiến lược cán bộ (tháng 6/1997); đường lối phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (tháng 7/1998); tích cực thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia có trách nhiệm trong ASEM, APEC.

Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy trao các văn kiện về việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO cho Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển, tại buổi lễ kết nạp Việt Nam vào WTO, ngày 7/11/2006, tại trụ sở WTO ở Geneva (Thụy Sĩ). (Nguồn: AFP/TTXVN phát)
Tổng Giám đốc WTO Pascal Lamy trao các văn kiện về việc kết nạp Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của WTO cho Bộ trưởng Thương mại Việt Nam Trương Đình Tuyển, tại buổi lễ kết nạp Việt Nam vào WTO, ngày 7/11/2006, tại trụ sở WTO ở Geneva (Thụy Sĩ). (Nguồn: AFP/TTXVN phát)

Thế giới bước vào thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học- công nghệ, hội nhập và toàn cầu hóa, nhưng cũng có nhiều diễn biến phức tạp và thách thức khó lường, như: chiến tranh cục bộ, xung đột lợi ích, khủng bố…

Trước tình hình đó, Đại hội IX của Đảng (tháng 4/2001) chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) đã ban hành những nghị quyết quan trọng về đổi mới tổ chức bộ máy, cơ quan Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị; về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020; chính sách kinh tế khi Việt Nam là thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; đẩy mạnh cải cách hành chính; xây dựng giai cấp công nhân, công tác thanh niên, xây dựng đội ngũ trí thức; vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, xây dựng nông thôn mới.

Trải qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. 

Đại hội XI của Đảng (tháng 1/2011) đề ra Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (2011-2020) với những mục tiêu dựa trên cơ sở đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng hiện đại, đồng bộ.

Đặc biệt, năm 2013, Trung ương chủ trương hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính trị; Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 2013; đẩy mạnh cải cách hành chính vì một nền hành chính hiện đại, minh bạch, có hiệu quả, chú trọng cải cách tư pháp.

Trải qua 30 năm đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã khẳng định những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội (1996), vượt qua tình trạng một nước nghèo, kém phát triển (2008); đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đại hội cũng khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Quang cảnh Đại hội XII của Đảng.
Quang cảnh Đại hội XII của Đảng.

Những thành tựu to lớn, toàn diện

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh tế, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nâng cao và khẳng định vị thế của đất nước trong đời sống chính trị, kinh tế của thế giới.

Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất-kỹ thuật được tăng cường, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt gần 7%. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD năm 1990 lên 2.587 USD năm 2018.

Đặc biệt, năm 2019, tăng trưởng GDP toàn quốc đạt 7,02%. Năm 2019, nhiều kỷ lục khác cũng được xác lập, như kim ngạch xuất nhập khẩu cán mốc trên 500 tỷ USD, xuất siêu 9,1 tỷ USD và là năm thứ 4 liên tiếp xuất siêu. Hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn: dầu khí, dệt may, da giày, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp, lắp ráp linh kiện điện tử… Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, Việt Nam hiện là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại song phương với hơn 100 nước, trong đó có 20 hiệp định thế hệ mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh tế, xã hội.

Về văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt, an sinh xã hội được bảo đảm. Chú trọng xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam phát triển toàn diện. Công tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả tốt, tỷ lệ hộ nghèo bình quân cả nước giảm từ 53 % năm 1993 xuống còn dưới 4% năm 2019.

Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm 1995); gia nhập ASEAN (năm 1995); gia nhập WTO (năm 2006); mở rộng quan hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn, như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Italy…; ký Hiệp ước chiến lược và Hiệp ước toàn diện với nhiều nước trên thế giới đồng thời, tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU, Mỹ…; tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập quốc tế.

Về quốc phòng-an ninh, thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phòng với chống “diễn biến hòa bình,” bạo loạn lật đổ; vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, để gây mất ổn định…

Các nhà lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) tại Hội nghị cấp cao APEC 2017 ở Đà Nẵng, tháng 11/2017. (Ảnh: Nhan Sáng/TTXVN)
Các nhà lãnh đạo Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) tại Hội nghị cấp cao APEC 2017 ở Đà Nẵng, tháng 11/2017. (Ảnh: Nhan Sáng/TTXVN)

Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực.

Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (năm 1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên đến Đại hội lần thứ XII (năm 2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.

Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trưởng thành và có thêm kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới.

Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước càng khẳng định vai trò lãnh đạo xuất sắc của Đảng và minh chứng rõ ràng Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam./.