Doanh nghiệp Việt Nam và làn sóng FTA

vnapotallo-1560736184-87.jpg

Thu hẹp khó khăn, mở rộng lợi ích

Được đánh giá là nền kinh tế có độ mở lớn với thế giới, Việt Nam đang tiệm cận gần hơn tới các chuỗi giá trị toàn cầu. Tính đến thời điểm này, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do, cùng quá trình trải qua 12 năm kể từ khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), diện mạo kinh tế Việt Nam có sự thay đổi; trong đó có sự đóng góp mạnh mẽ của lực lượng doanh nghiệp.

Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, nếu được tạo lập nền tảng tốt, có đầy đủ các thông tin, kiến thức về hội nhập và sự hỗ trợ tích cực của hệ thống pháp luật kinh doanh ổn định, minh bạch và có tính thúc đẩy thì chắc chắn các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và nền kinh tế nói chung sẽ có những bước tiến xa hơn.

TTXVN xin giới thiệu loạt bài viết xung quanh các vấn đề này:

Làn sóng hội nhập đã đưa Việt Nam tiệm cận gần hơn tới các chuỗi giá trị toàn cầu và đem lại nhiều lợi ích kinh tế hơn bao giờ hết. Đó là điều đáng ghi nhận và tự hào. Tuy nhiên, chúng ta cũng vấp phải áp lực từ những biến động của nền kinh tế thế giới như ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp xoay quanh từ các xung đột thương mại giữa các nước, sự thay đổi chính sách kinh tế, chính trị hay các rào cản thương mại…

Lợi thế và thách thức đan xem

Bình luận về lợi thế khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA), tiến sỹ Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) nhận định, tham gia sân chơi chung của toàn cầu, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác không chỉ được hưởng lợi về cam kết giảm, miễn thuế nhập khẩu nhiều sản phẩm hàng hóa; các cam kết về dịch vụ… mà còn nhận được tác động tích cực từ áp lực cải thiện thể chế, đổi mới hệ thống pháp luật hiện hành và thay đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển bền vững. Điều đó phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của thực tiễn khách quan và cũng là xu hướng chung trên toàn cầu.

Là người luôn theo sát các hoạt động pháp lý của doanh nghiệp trên thương trường, tiến sỹ Trần Hữu Huỳnh, Chủ tịch Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam cho biết, được loại bỏ thuế quan theo các FTA đã mang lại lợi thế hơn cho doanh nghiệp trong sản xuất và xuất khẩu; đồng thời, thu hút được nhiều nguồn vốn, công nghệ và trình độ quản lý của các đối tác đầu tư đến từ các nước đã có FTA với Việt Nam.

Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH 4P (xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang, Hưng Yên). (Ảnh: Pham Kiên/TTXVN)
Sản xuất linh kiện điện tử tại Công ty TNHH 4P (xã Vĩnh Khúc, huyện Văn Giang, Hưng Yên). (Ảnh: Pham Kiên/TTXVN)

“Song cơ bản nhất là môi trường kinh doanh tại Việt Nam đã trở nên thông thoáng và an toàn hơn, với hàng loạt văn bản chính sách, pháp luật quan trọng về đầu tư, kinh doanh được xây dựng và sửa đổi cũng như chính sách để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường được đưa ra; cải cách thủ tục hành chính được triển khai trên diện rộng. Đồng thời, thấy rõ sự tham gia ít bị động hơn của cộng đồng doanh nghiệp vào chính sách thương mại quốc tế,” ông Huỳnh nhấn mạnh.

Doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được lợi thế từ các hiệp định thương mại.

Tuy nhiên, vì sao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế và tính liên kết giữa khu vực doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn rất lỏng lẻo? Và tại sao vai trò của các doanh nghiệp Việt, sản phẩm Việt trong chuỗi cung ứng toàn cầu còn rất ít ỏi và mờ nhạt?

Có nhiều nguyên nhân lý giải cho việc doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được lợi thế từ các hiệp định thương mại. Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), vấn đề nhận thức, rào cản về trình độ và công nghệ cùng năng lực hạn chế, không đáp ứng đủ các điều kiện về quy tắc xuất xứ… khiến nhiều doanh nghiệp Việt khó với tới những quyền lợi được giảm và miễn thuế đối với hàng xuất khẩu. Thêm vào đó, thủ tục và trình tự cấp C/O để được hưởng ưu đãi hiện còn rất phức tạp khiến họ băn khoăn trước bài toán giữa chi phí bỏ ra và lợi ích thu được từ việc giảm thuế.

Sản xuất giầy xuất khẩu sang thị trường châu Âu tại nhà máy của Công ty Cổ phần giầy Hải Dương. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Sản xuất giầy xuất khẩu sang thị trường châu Âu tại nhà máy của Công ty Cổ phần giầy Hải Dương. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

Đề cập vấn đề này, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban Pháp chế (VCCI) chỉ ra, ngoài việc chưa tận dụng được lợi thế từ các hiệp định thương mại, nhiều ngành hàng sản xuất của Việt Nam còn đối mặt với việc xuất khẩu có tăng nhưng giá trị gia tăng đem lại không cao, chủ yếu vẫn là cung ứng nguyên liệu thô và hàng gia công. Trong khi đó, phải chịu sức ép cạnh tranh từ chính các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vì tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này ngày càng tăng cao. Thêm vào đó là sức ép cạnh tranh khốc liệt từ hàng hóa nước ngoài ngay tại chính thị trường nội địa. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu như chưa có sự chuẩn bị nên thường chỉ tự điều chỉnh để thích ứng thay vì tận dụng cơ hội.

Cùng với những khó khăn đó lại xuất hiện thêm nhiều rào cản khác ở thị trường các nước có FTA với Việt Nam như hàng rào kiểm dịch biên giới hay các biện pháp phòng vệ thương mại, ông Tuấn nêu thêm.

Các doanh nghiệp nhỏ và vừa hầu như chưa có sự chuẩn bị nên thường chỉ tự điều chỉnh để thích ứng thay vì tận dụng cơ hội.

Từ thực tiễn của ngành nhựa, ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch Hội đồng quản trị Nhựa Rạng Đông kiêm Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam cho biết, ngành nhựa có các sản phẩm liên quan đến áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp tại thị trường. Thêm nữa, các doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nhựa Việt Nam đang gặp khó khăn khi cạnh trạnh về giá với hàng hóa Trung Quốc. Trước diễn biến cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, nguy cơ sẽ có hàng trăm doanh nghiệp ngành nhựa Việt Nam sẽ tạm ngừng sản xuất và hàng nghìn công nhân sẽ mất việc do hàng hóa Trung Quốc “phá giá” hay có ý đồ lắp ráp sản phẩm và dán nhãn “made in Vietnam” để né tránh thuế.

Đó là những thách thức không hề nhỏ mà đa phần các doanh nghiệp ngành nhựa trong nước đang phải đối diện nên nếu thiếu sự hỗ trợ và tạo điều kiện kinh doanh của các cơ quan hữu quan thì việc tồn tại còn khó chứ chưa nói tới việc tự vươn lên nắm lấy cơ hội phát triển trong bối cảnh hội nhập.

(Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN)
(Ảnh: Mỹ Phương/TTXVN)

Ngành hàng bán lẻ cũng không ngoại lệ, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cho hay, các cam kết về thuế quan, thương mại điện tử và mở cửa viễn thông hay cam kết về hải quan và tạo thuận lợi thương mại, mở cửa dịch vụ vận tải… là những lợi thế thấy rõ khi Việt Nam tham gia các FTA với cộng đồng quốc tế. Song cũng có những bất cập trong lưu thông hàng hóa từ nhà sản xuất nội địa đến nhà bán lẻ, hay thực trạng thiếu lao động, khó khăn về mặt bằng kinh doanh,  vốn… khiến các doanh nghiệp ngành bán lẻ Việt Nam thường có xu hướng yếu thế hơn trước sự xâm nhập của các nhà bán lẻ ngoại.

Các doanh nghiệp ngành bán lẻ Việt Nam thường có xu hướng yếu thế hơn trước sự xâm nhập của các nhà bán lẻ ngoại.

Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể khiến cho thị trường bán lẻ Việt Nam trở nên sôi động và kích thích tiêu dùng. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp Việt học hỏi về kỹ năng quản trị. Song, bà Loan tỏ ý quan ngại về sức ép cạnh tranh của các nhà đầu tư nước ngoài, vốn có năng lực tốt hơn trên mọi bình diện sẽ thu hút hết nguồn nhân lực và khách hàng của các doanh nghiệp nội.

Trong bối cảnh hội nhập, đa phần các doanh nghiệp trong nước thường yếu về nội lực và thiếu về trình độ nên việc tận dụng lợi ích từ ưu đãi thuế hay dành được các chính sách hỗ trợ là không dễ dàng, bà Loan phân tích.

Doanh nghiệp kỳ vọng

Qua quá trình khảo sát và nắm bắt yêu cầu từ cộng đồng doanh nghiệp, bà Nguyễn Thu Trang, Giám đốc Trung tâm WTO và hội nhập (VCCI) cho hay, các doanh nghiệp bày tỏ sự mong mỏi được tiếp cận thông tin đàm phán của các FTA sắp ký kết; được hướng dẫn để xác định và tự đánh giá được những tác động đối với doanh nghiệp. Cơ bản nhất, doanh nghiệp muốn được tham vấn thực chất và thường xuyên trước mọi thay đổi về các chính sách đầu tư, kinh doanh có liên quan.

Với những FTA đã có, đa phần doanh nghiệp mong đợi được cung cấp các thông tin chính xác và đầy đủ để có thể hiểu một cách toàn diện về các FTA, được hướng dẫn cách thức thực tế để tận dụng các cơ hội; đồng thời, được tư vấn về các FTA bất cứ khi nào cần…

Lớp tập huấn với chủ đề “Cơ hội và thách thức từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và giải pháp xúc tiến thương mại trong thời kỳ hội nhập” cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. (Ảnh: Phước Ngọc/TTXVN)
Lớp tập huấn với chủ đề “Cơ hội và thách thức từ các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) và giải pháp xúc tiến thương mại trong thời kỳ hội nhập” cho các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. (Ảnh: Phước Ngọc/TTXVN)

Đại diện tâm tư của đa phần doanh nghiệp nói chung và hầu hết các doanh nghiệp ngành bán lẻ nói riêng, bà Đinh Thị Mỹ Loan, Chủ tịch Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam cũng đề xuất nhiều chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển thuận lợi. Đó là Chính phủ tạo điều kiện để hình thành các trung tâm kết nối các doanh nghiệp bán lẻ và nhà sản xuất; khuyến khích cho vay tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa; cải cách cơ chế hành chính về thuế đối với các doanh nghiệp nhỏ, lẻ. Cùng đó, Chính phủ khuyến khích đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; thực thi chặt chẽ các cam kết mở cửa thị trường…

Kết quả cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam vẫn còn rất chậm và chưa đi vào thực tế.

Đánh giá về việc tạo thuận lợi môi trường kinh doanh, đại biểu Quốc hội Trần Tất Thế (đoàn Hà Nam) cho rằng, trong những năm qua, Thủ tướng Chính phủ rất quyết liệt chỉ đạo cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng cho người dân và doanh nghiệp, với khoảng 30% điều kiện kinh doanh được cắt bỏ và sửa đổi. Tuy nhiên, theo đánh giá của các chuyên gia, tổ chức quốc tế thì kết quả cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam vẫn còn rất chậm và chưa đi vào thực tế.

Vì vậy, đại biểu đề nghị Chính phủ quyết liệt hơn nữa vấn đề này; trong đó cần chuyển đổi mạnh mẽ cách thức quản lý nhà nước từ tiền kiểm sang hậu kiểm, gắn liền với áp dụng nguyên tắc quản lý rủi ro, xóa bỏ căn bản tình trạng một mặt hàng chịu sự quản lý, kiểm tra chuyên ngành của nhiều cơ quan nhằm tạo thông thoáng cho doanh nghiệp trong xuất nhập khẩu hàng hóa.

Chế biến cá tra phi lê xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Đầu tư & Phát triển Đa Quốc Gia IDI (Tập đoàn Sao Mai) ở Cụm công nghiệp Vàm Cống, huyện Lấp Vò (Đồng Tháp). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Chế biến cá tra phi lê xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Đầu tư & Phát triển Đa Quốc Gia IDI (Tập đoàn Sao Mai) ở Cụm công nghiệp Vàm Cống, huyện Lấp Vò (Đồng Tháp). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Ở góc độ doanh nghiệp xuất khẩu, ông Võ Quan Huy, Chủ tịch Hiệp hội Tôm Mỹ Thanh, tỉnh Sóc Trăng nhìn nhận, khi thực thi các FTA, các thị trường nhập khẩu có các tiêu chí cao về kỹ thuật, an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc sản phẩm nhập khẩu. Vì vậy, ban thân người sản xuất cần phải nỗ lực rất nhiều để tạo ra sản phẩm chất lượng, an toàn mới nâng được thế cạnh tranh với sản phẩm cùng loại tại thị trường thành viên các FTA.

Đó quả thực là những nguyện vọng chính đáng và rất thiết thực. Bởi hơn ai hết, chính doanh nghiệp biết mình cần gì, thiếu gì để có thể bù đắp cho những hạn chế, lỗ hổng về nhận thức, trình độ, công nghệ và cả nguồn nhân lực…, những yếu tố mềm và cứng để tạo nền tảng tốt, đủ khả năng nắm bắt cơ hội và tận dụng tốt nhất những ưu đãi, lợi thế mang lại từ các FTA./.

Cơ hội phụ thuộc vào từng doanh nghiệp

Nhóm phóng viên

Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)  là dấu mốc quan trọng cho cả một quá trình mở cửa sau này- một chủ trương phát triển, hội nhập nhất quán của Đảng, Nhà nước. Nhìn nhận cơ hội mà Việt Nam có được khi tham gia các Hiệp định thương mại tự do (FTA), các chuyên gia nhận định, chúng ta có nhiều cơ hội đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế.

Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là tận dụng thế nào thì lại phụ thuộc vào từng doanh nghiệp. Những chia sẻ dưới đây của một số nhà quản lý, đại diện doanh nghiệp ngành hàng sẽ làm rõ hơn vấn đề này.

Ông Nguyễn Văn Sưa, Phó chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam: Tạo sân chơi cạnh tranh lành mạnh

Tác động của các FTA tới các ngành kinh tế nói chung và ngành thép nói riêng luôn có hai chiều. Về mặt tích cực, các FTA sẽ đem đến cho doanh nghiệp nhiều cơ hội mở rộng thị trường để xuất khẩu. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng đặt ra rất nhiều thách thức đối với doanh nghiệp; trong đó, đối với ngành thép phải kể đến xu hướng nhập khẩu thép ngoại vào Việt Nam sẽ tăng cao, đặc biệt là thép từ Trung Quốc.

Ngoài việc thu ngân sách từ thuế nhập khẩu bị giảm, nguy cơ nhập khẩu tăng lên, doanh nghiệp Việt Nam cũng phải chịu sự cạnh tranh cao hơn. Tham gia nhiều FTA cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật; các biện pháp phòng vệ liên quan đến chống bán phá giá, chống trợ cấp, xuất xứ hàng hóa một cách rõ nét hơn so với những năm trước đây.

Tham gia nhiều FTA cũng đồng nghĩa với việc doanh nghiệp phải đối mặt với các rào cản kỹ thuật

Vì thế, doanh nghiệp cần tìm hiểu kỹ quy định, lộ trình cắt giảm thuế quan, luật lệ của các nước để ứng phó phù hợp. Điều này vừa để xuất khẩu được vào các nước vừa tránh được những vụ kiện gây phiền phức, tốn kém. Đồng thời, doanh nghiệp hoàn thiện hơn nữa chuỗi sản xuất của chính mình để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm từ chất lượng, giá cả, đảm bảo thời gian, dịch vụ cung ứng…

Ngoài ra, cơ quan chức năng cũng cần có giải pháp trong việc ngăn chặn hàng giả, hàng nhái, hàng nhập khẩu mượn xuất xứ Việt Nam hay gian lận thương mại từ các nước vào Việt Nam để tạo sân chơi cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp trong nước.

Dây chuyền sản xuất thép tại Công ty CP Thép Hòa Phát. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Dây chuyền sản xuất thép tại Công ty CP Thép Hòa Phát. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Ông Nguyễn Tôn Quyền, Phó Chủ tịch Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam (VIFORES): Nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng

Động lực thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành gỗ đến từ các FTA, đó là: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam–Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP)… Dẫn chứng cụ thể là việc tham gia CPTPP mang lại cơ hội lớn cho ngành gỗ của Việt Nam nhờ những lợi thế cắt giảm thuế quan. Theo đó, một số đối tác chưa có hiệp định thương mại với Việt Nam xóa bỏ đa số các dòng thuế đối với các mặt hàng đồ gỗ nội thất, văn phòng, nhà bếp khi CPTPP có hiệu lực.

Hay, Hiệp định Đối tác tự nguyện về Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản giữa Việt Nam và EU (VPA/FLEGT) mới có hiệu lực sẽ là cơ hội lớn để các sản phẩm gỗ từ Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU. Hiệp định VPA/FLEGT sẽ mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam trên cả 3 lĩnh vực kinh tế-xã hội-môi trường. Nổi bật là mở rộng thị trường xuất khẩu, cải thiện thể chế về quản lý rừng, giải quyết tình trạng khai thác và thương mại gỗ trái phép, góp phần phát triển bền vững ngành chế biến gỗ xuất khẩu của Việt Nam.

Động lực thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành gỗ đến từ các FTA

Mặc dù có nhiều tiềm năng khi tham gia các hiệp định thương mại thế hệ mới, ngành gỗ Việt Nam vẫn phải đối mặt với các vấn đề như cần vốn lớn để đầu tư máy móc, cải tiến năng lực sản xuất để có thể đáp ứng được các đơn hàng. Bên cạnh đó, tăng trưởng của ngành gỗ vẫn chủ yếu dựa vào nguồn lao động dồi dào và lượng nguyên liệu để cạnh tranh, trong khi các nước phát triển đầu tư vào thiết kế, nhãn hiệu, công nghệ tự động hóa, nhà xưởng hiện đại. Việt Nam có nhiều làng nghề, nhưng xu hướng là sản xuất hàng giá rẻ và chất lượng không ổn định, trong khi các doanh nghiệp sản xuất lớn lại tập trung vào sản xuất hàng gia công xuất khẩu.

Sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu tại Công ty TNHH khai thác, chế biến lâm sản Đà Lạt (Lâm Đồng). (Nguồn: TTXVN)
Sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu tại Công ty TNHH khai thác, chế biến lâm sản Đà Lạt (Lâm Đồng). (Nguồn: TTXVN)

Do đó, các doanh nghiệp cần chú trọng đầu tư, áp dụng tự động hóa trong sản xuất, áp dụng công nghệ quản lý mới, nâng cao chất lượng, tay nghề công nhân để giảm giá thành, tăng năng suất lao động. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác, tạo lập và hình thành chuỗi liên kết từ sản xuất nguyên liệu đến xuất khẩu nhằm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng trong sản xuất kinh doanh.

Dự báo xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ của Việt Nam vẫn tiếp tục được mở rộng. Tuy nhiên, để tránh việc mở rộng bằng sự gia tăng nguồn nguyên liệu và lao động phổ thông, ngành cần có các mô hình phát triển mới, tập trung vào giá trị được tạo ra trong khâu thiết kế, thương mại, tay nghề cao và công nghệ. Phát triển các mô hình này đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ bản thân doanh nghiệp mà cả các cơ quan quản lý, từ cấp Trung ương và địa phương.

Ông Trần Văn Phẩm, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Thủy sản Sóc Trăng: Cải thiện vị thế ngành hàng

Khi các FTA với châu Âu có hiệu lực, ngành tôm Việt Nam sẽ có lợi thế hơn tôm Ấn Độ và Thái Lan khi xuất khẩu vào thị trường này. Đây là thị trường lâu đời của ngành thủy sản Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản Việt Nam hiểu rất rõ những yêu cầu của thị trường.

Tuy nhiên, ngành tôm vẫn còn những “nút thắt” phải tháo gỡ lâu dài. Bởi, việc giảm thuế, phí khi hàng hóa Việt Nam thâm nhập châu Âu chỉ là sự hỗ trợ rất nhỏ. Vấn đề là doanh nghiệp, nông dân và cơ quan chức năng cần làm là có chính sách hỗ trợ để nâng tỉ lệ hạn điền cho nông dân sản xuất, doanh nghiệp đầu tư.

Khi các FTA với châu Âu có hiệu lực, ngành tôm Việt Nam sẽ có lợi thế hơn tôm Ấn Độ và Thái Lan khi xuất khẩu vào thị trường này.

Doanh nghiệp muốn áp dụng cơ giới, kỹ thuật vào sản xuất thì cần diện tích sản xuất lớn. Trong khi đó, diện tích sản xuất của 70% nông dân hiện nay vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, gây khó khăn cho việc giảm giá thành sản phẩm.

Tại Sóc Trăng cũng đã có nhiều hộ nông dân áp dụng kỹ thuật, giảm giá thành sản xuất tôm, nhưng số lượng không nhiều so với tỉ lệ chung của cả nước, chưa đủ sức để vực giá cho ngành tôm nói chung.

Dây chuyền chế biến tôm đông lạnh xuất khẩu của Công ty Cổ phần Chế biến thủy sản xuất khẩu Thuận Phước. (Ảnh tư liệu: Vũ Sinh/TTXVN)
Dây chuyền chế biến tôm đông lạnh xuất khẩu của Công ty Cổ phần Chế biến thủy sản xuất khẩu Thuận Phước. (Ảnh tư liệu: Vũ Sinh/TTXVN)

Do đó, song song với các hiệp định thương mại tự do được kí kết, nông dân và doanh nghiệp thủy sản Việt Nam vẫn cần thêm nhiều chính sách hỗ trợ để sản phẩm tôm Việt giảm giá thành sản xuất, nâng cao thế cạnh tranh với tôm Ấn Độ và Thái Lan, Ecuadore trên thị trường thế giới và ngay trên sân nhà.

Tại Việt Nam, hiện có rất nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài làm khâu trung gian cho ngành tôm Việt Nam, đưa sản phẩm tôm Việt đi các quốc gia khác. Nếu giá thành sản xuất ra 1kg tôm cao, khó có thể cạnh tranh thì chắc chắn các doanh nghiệp sẽ lựa chọn con đường tạm nhập tái xuất tôm của Ấn Độ, Thái Lan, thay vì lựa chọn sản phẩm tôm của nông dân và doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, giải pháp giảm giá thành sản phẩm sẽ là cơ hội để ngành tôm Việt Nam bứt phá.

Ông Lương Hoàng Thái, Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương): Hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt cơ hội

Quá trình tham gia các FTA đã cho thấy, cùng với tiến trình phát triển của nền kinh tế, khả năng tận dụng ưu đãi của các FTA đã có bước cải thiện đáng kể, thể hiện rõ rệt nhất ở các FTA Việt Nam chủ động thúc đẩy đàm phán và thực thi. Chẳng hạn với Nhật Bản, từ việc Việt Nam nhập siêu khoảng 500 triệu USD năm 2009, nhưng sau khi FTA song phương giữa Việt Nam–Nhật Bản được đưa vào thực thi, Việt Nam đã chuyển sang xuất siêu. Quan trọng hơn là làn sóng đầu tư trực tiếp từ Nhật Bản vào Việt Nam có xu hướng gia tăng đáng kể.

Các FTA đã giúp Việt Nam tăng đáng kể năng lực cạnh tranh.

Tương tự, Việt Nam xuất siêu sang các nước Liên minh kinh tế Á–Âu đã tăng từ 500 triệu USD lên 900 triệu USD trong năm đầu tiên thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam–Liên minh kinh tế Á–Âu … Hơn nữa, các FTA đã giúp Việt Nam tăng đáng kể năng lực cạnh tranh. Thông qua việc mở cửa, chấp nhận cạnh tranh với bên ngoài, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển dịch tích cực, hỗ trợ cho tiến trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng của đất nước.

Để đồng hành cùng doanh nghiệp và giúp các doanh nghiệp tận dụng lợi thế của các FTA, các bộ, ngành cần có những biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng tốt hơn cơ hội từ thị trường bên ngoài; ứng phó với các hàng rào kỹ thuật khi thuế quan được hạ thấp theo các cam kết trong các FTA.

Sơ chế, đó gói sản phẩm chuối xanh xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Xuất nhập khẩu Xanh Việt (An Giang). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Sơ chế, đó gói sản phẩm chuối xanh xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Xuất nhập khẩu Xanh Việt (An Giang). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Tiếp theo, các doanh nghiệp cũng cần vươn lên để đáp ứng tốt hơn các yêu cầu nghiêm ngặt của các nước nhập khẩu trong khu vực FTA về các biện pháp kỹ thuật hay kiểm dịch cũng như các biện pháp quản lý nhập khẩu khác. Các doanh nghiệp cũng tìm hiểu các quy định về các tiêu chuẩn, quy chuẩn và biện pháp quản lý nhập khẩu của các nước mà doanh nghiệp muốn xuất khẩu để tránh các rủi ro.

Các cơ quan quản lý cũng cần đồng hành để tăng cường hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư tại các thị trường mà Việt Nam đã triển khai thực thi FTA. Ngoài ra, các hoạt động xúc tiến cần mang tính tập trung, tránh dàn trải, chú trọng vào các lĩnh vực, ngành hàng có thế mạnh xuất khẩu hoặc có tiềm năng xuất khẩu sang những thị trường này.

Bên cạnh đó, việc hỗ trợ kỹ năng đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán ngoại thương, marketing, truy xuất thông tin về mặt hàng, quản lý chất lượng sản phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế cũng cần được các bộ, ngành liên quan phối hợp, hỗ trợ đào tạo cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.

‘Đòn bẩy’ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu ngành dệt may

Hằng Trần

Với trên 6.000 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng xấp xỉ 15% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, ngành dệt may Việt Nam đã và đang giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước.

Hiện xuất khẩu dệt may Việt Nam hiện nằm trong top 3 nước xuất khẩu dệt may cao nhất thế giới. Đặc biệt, khi các Hiệp định thương mại tự do (FTA) được kỳ vọng là “đòn bẩy” để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam.

Ngành dệt may xác định tận dụng cơ hội từ các FTA là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành trong thời gian tới.

Tận dụng hiệu quả các FTA

Ông Vũ Đức Giang – Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho biết, Việt Nam đã tham gia tới 16 FTA với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó 12 FTA đã ký kết và có hiệu lực đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu cao so với thời điểm trước khi có FTA. Dệt may là một trong những mặt hàng đã tận dụng hiệu quả các FTA.

Các Hiệp định thương mại tự do đã đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng xuất khẩu dệt may thời gian gần đây. Cụ thể, FTA Việt Nam-Hàn Quốc (VKFTA) có hiệu lực vào năm 2015, thì ngay năm 2016, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sang Hàn Quốc đạt 2,6 tỷ USD, tăng 9,5% so với năm 2015. Năm 2017, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đạt 2,9 tỷ USD, tăng 11,8% so với năm trước và năm 2018 đạt 3,3 tỷ USD, tăng 24,9%.

Dệt may là một trong những mặt hàng đã tận dụng hiệu quả các FTA.

FTA giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á-Âu có hiệu lực vào tháng 10/2016 cũng đã giúp kim ngạch xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Nga tăng từ mức 84,8 triệu USD năm 2015 lên khoảng 172 triệu USD năm 2017 và  180 triệu USD vào năm 2018.

Theo Bộ Công Thương, trong 5 tháng đầu năm 2019, ngành dệt may tiếp tục duy trì đà tăng trưởng và mở rộng sản xuất, kim ngạch xuất khẩu đạt 12,061 tỷ USD, tăng 10,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý, những thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, các nước khối Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Liên minh châu Âu (EU), Hàn Quốc, Trung Quốc, ASEAN… đều tăng mạnh, tốc độ tăng vượt trội so với cùng kỳ năm 2018.

May hàng xuất khẩu tại nhà máy của Tổng công ty May 10. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
May hàng xuất khẩu tại nhà máy của Tổng công ty May 10. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

Ông Thân Đức Việt – Tổng giám đốc Tổng Công ty May 10 cho biết, thông thường Tổng công ty chỉ nhận được đơn hàng trước 3 tháng, nhưng ngay từ đầu năm 2019, các nhà nhập khẩu lớn của Mỹ, EU, Nhật Bản đã đặt hàng đến hết tháng 8. Điều này cho thấy, thị trường có tín hiệu tốt, thêm nhiều sự lựa chọn cho doanh nghiệp sản xuất.

Theo ông Vũ Đức Giang, dự kiến xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam từ nay đến cuối năm có tốc độ tăng trưởng tốt, kim ngạch ước đạt 16-18 tỷ USD, góp phần đưa ngành đạt mục tiêu kim ngạch xuất khẩu cả năm 40 tỷ USD. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp đã nhận được đơn hàng đến hết năm nên khả năng hoàn thành mục tiêu của ngành dệt may là rất khả quan.

Thực tế cho thấy thuận lợi trong xuất khẩu của ngành dệt may đã được Hiệp hội Dệt May Việt Nam sớm dự báo khi ngay từ cuối quý I, nhiều doanh nghiệp đã có đơn hàng đến hết quý III, thậm chí là hết năm.

Cơ hội mới cho hàng xuất khẩu

Về tác động của các Hiệp định thương mại tự do với ngành dệt may, các chuyên gia cho rằng tham gia hàng loạt các FTA; trong đó, có Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mở ra những cơ hội mới cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, nhất là dệt may được coi là một trong những ngành mũi nhọn, có nhiều cơ hội mở rộng thị trường. Bởi tham gia hiệp định, dòng thuế suất bằng 0%, khi đó, sản phẩm dệt may Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh về giá.

Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mở ra những cơ hội mới cho hàng hóa xuất khẩu Việt Nam, nhất là dệt may được coi là một trong những ngành mũi nhọn.

Theo ông Trương Văn Cẩm, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt May Việt Nam, đó cũng là động lực để các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành nguyên phụ liệu, công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam. Từ đó, thiết lập sự liên kết trong chuỗi dệt–may hiệu quả hơn, tạo nền tảng cho ngành dệt may Việt Nam phát triển bền vững. Mặt khác, nhờ có CPTPP, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng sẽ quan tâm tìm hiểu và đẩy mạnh xuất khẩu sang các thị trường mới ở khu vực Nam Mỹ.

Ông Trương Văn Cẩm nhấn mạnh, lợi thế nổi bật mà dệt may Việt Nam có được từ CPTPP là mức thuế quan được cắt giảm sâu và nhanh, từ đó gia tăng năng lực cạnh tranh về giá. Tuy nhiên, việc khai thác ưu đãi thuế là không dễ bởi muốn được ưu đãi phải đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật cũng như nguyên tắc xuất xứ rất khắt khe.

CPTPP được kỳ vọng sẽ tạo cú hích cho nhiều ngành hàng của Việt Nam, trong đó có ngành dệt may. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
CPTPP được kỳ vọng sẽ tạo cú hích cho nhiều ngành hàng của Việt Nam, trong đó có ngành dệt may. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Nhưng với năng lực, trình độ hiện nay, các tiêu chuẩn kỹ thuật không phải là vấn đề lớn của doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Vấn đề yêu cầu xuất xứ từ sợi trở đi, nghĩa là từ công đoạn kéo sợi, dệt nhuộm vải đều phải thực hiện trong khu vực CPTPP là thách thức vì Việt Nam hiện nay đang phải nhập khẩu hơn 60% nguyên phụ liệu ngoài khu vực CPTPP.

Do vậy, việc giải quyết nguồn nguyên liệu sẽ là bài toán không đơn giản với ngành dệt may Việt Nam.

Ông Phạm Xuân Hồng, Chủ tịch Hội Dệt May Thêu Đan Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, dù đã chuẩn bị cho CPTPP nhưng để có thể tận dụng được lợi thế thì doanh nghiệp chưa đáp ứng được. Do đó, doanh nghiệp cần tìm hiểu những nội dung liên quan tới ngành từ CPTPP về quy định, thủ tục hải quan, logistics của các nước, đồng thời bản thân doanh nghiệp ý thức tự vươn lên và liên kết để nâng cao chất lượng sản xuất.

Với các FTA, CPTPP và EVFTA, nếu như không cẩn trọng và có bước đi thích hợp, doanh nghiệp Việt sẽ phải nhường thị phần cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. (Ông Cao Hữu Hiếu – Giám đốc điều hành Tập đoàn Dệt May Việt Nam)

Hơn nữa, Nhà nước nên hỗ trợ các doanh nghiệp, tạo sân chơi bình đẳng, giảm thiểu thủ tục hành chính để tránh được sự “lép vế” của doanh nghiệp Việt trên chính sân nhà. Nếu có sự cộng hưởng như vậy, doanh nghiệp Việt sẽ tận dụng tốt những ưu thế mà CPTPP mang lại.

Ông Cao Hữu Hiếu – Giám đốc điều hành Tập đoàn Dệt May Việt Nam cho rằng, với các FTA, CPTPP và EVFTA, nếu như không cẩn trọng và có bước đi thích hợp, doanh nghiệp Việt sẽ phải nhường thị phần cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) có lợi thế hơn về vốn, kinh nghiệm, công nghệ, con người. Khi đó, nhiều doanh nghiệp FDI sẽ thiết lập chuỗi sản xuất từ sợi-vải-may mặc tại Việt Nam, vừa tận dụng các lợi thế miễn giảm thuế từ các FTA, vừa tránh, giảm ảnh hưởng nếu có rủi ro kịch bản căng thẳng thương mại với Mỹ trong tương lai.

(Nguồn: TTXVN)
(Nguồn: TTXVN)

Nếu như vậy, kịch bản tăng trưởng của toàn ngành dệt may vẫn đảm bảo, chỉ có tăng trưởng khu vực doanh nghiệp nội là đáng quan ngại. Vì vậy, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần đưa ra các giải pháp cụ thể với từng kịch bản thị trường, đồng thời liên kết chuỗi để cùng vượt qua những biến động của thị trường.

Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) ông Trần Thanh Hải chia sẻ, quy tắc xuất xứ của CPTPP, EVFTA tuy chặt chẽ, nhưng vẫn có những điều khoản linh hoạt giúp các doanh nghiệp dệt may trong nước dần thích ứng. Theo đó, doanh nghiệp cần chủ động theo dõi biến động thị trường. Bộ Công Thương luôn đồng hành với doanh nghiệp; trong đó nỗ lực khơi thông những hàng rào phi thuế quan, đàm phán hạn chế tối đa việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại từ các quốc gia nhập khẩu.

 Quy tắc xuất xứ của CPTPP, EVFTA tuy chặt chẽ, nhưng vẫn có những điều khoản linh hoạt giúp các doanh nghiệp dệt may trong nước dần thích ứng.(Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu – Bộ Công Thương, Trần Thanh Hải chia sẻ)

Để thuyết phục được các thị trường mới có nhu cầu hàng hóa chất lượng cao, doanh nghiệp Việt Nam phải có sự đầu tư cho nghiên cứu, phát triển sản phẩm, xây dựng các thương hiệu và tạo được giá trị riêng. Việc này cần có thời gian và nguồn lực về tài chính, con người cũng xây dựng chương trình hành động, kế hoạch cải thiện năng lực sản xuất để khai thác hiệu quả các ưu đãi về thuế quan, không chỉ CPTPP mà còn trong tất cả các FTA đang và sắp có hiệu lực./.

Hỗ trợ tối đa việc cấp C/O cho doanh nghiệp

Uyên Hương

Khi các hiệp định thương mại tự do (FTA) có hiệu lực, chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) là một trong những điều kiện quan trọng nhất giúp doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thuế quan. Chính vì vậy, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, Bộ Công Thương đã đơn giản hóa việc cấp C/O nhằm giảm thiểu thời gian và chi phí. Tuy nhiên, theo các chuyên gia thương mại, không ít doanh nghiệp vẫn mắc lỗi phổ biến khi nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận này.

Đơn giản hóa thủ tục

Ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, C/O là chứng từ quan trọng giúp hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan trong các FTA.

Vì vậy, Bộ Công Thương đã tổ chức phân luồng trong thủ tục cấp C/O ưu đãi, giảm thiểu thời gian kiểm tra hồ sơ và kiểm tra thực tế hàng hóa, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ. Cùng với đó, Bộ Công Thương cũng cắt giảm khối lượng và chi phí lưu trữ hồ sơ; chuyển dần từ hình thức tiền kiểm sang hình thức hậu kiểm; giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa.

C/O là chứng từ quan trọng giúp hàng hóa được hưởng ưu đãi thuế quan trong các FTA.

Song song với việc phân luồng, hoạt động cấp C/O qua Internet được thí điểm từ năm 2016 và duy trì cho đến nay. Từ vài chục bộ hồ sơ trong giai đoạn đầu triển khai, đến nay, mỗi năm toàn hệ thống tiếp nhận, xử lý khoảng 1 triệu bộ C/O các loại.

Với mục tiêu giảm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, xuất nhập khẩu hàng hóa, đồng thời thực hiện cam kết từ năm 2015, Bộ Công Thương đã thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN.

Chính vì vậy, doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu đi ASEAN (được cấp C/O mẫu D) năm trước liền kề đạt tối thiểu 10 triệu USD sẽ được tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

Bộ Công thương tổ chức Lễ công bố cấp chứng thư xuất khẩu qua Internet cho hàng dệ may xuất khẩu đi Mexico theo Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nói chung và Hiệp định ký kết giữa Việt Nam và Mexico nói riêng có hiệu lực từ ngày 20/6/2019. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)
Bộ Công thương tổ chức Lễ công bố cấp chứng thư xuất khẩu qua Internet cho hàng dệ may xuất khẩu đi Mexico theo Hiệp định đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) nói chung và Hiệp định ký kết giữa Việt Nam và Mexico nói riêng có hiệu lực từ ngày 20/6/2019. (Ảnh: Trần Việt/TTXVN)

Từ đó đến nay, Bộ Công Thương đã tiếp nhận hồ sơ đề nghị tham gia thí điểm và cấp mã số Nhà xuất khẩu đủ điều kiện tham gia thí điểm tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa cho 10 thương nhân xuất khẩu Việt Nam. Bằng các hoạt động tạo ưu đãi trong cấp C/O, đến nay, tỷ lệ tận dụng C/O ưu đãi trong các FTA ngày càng cao.

Cụ thể, tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng các loại C/O ưu đãi theo FTA năm 2018 đạt 66,2 tỷ USD, chiếm 39% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường Việt Nam ký FTA.

Tính đến hết tháng 5/2019, các tổ chức được ủy quyền đã tăng cường cấp C/O ưu đãi, đặc biệt là C/O trong khối CPTPP với 1.872 bộ hồ sơ được cấp, tổng trị giá đạt khoảng 58,38 triệu USD.

Các bộ C/O chủ yếu được cấp cho hàng hóa xuất khẩu sang Canada, trị giá đạt khoảng 39,1 triệu USD. Những mặt hàng xuất khẩu được cấp C/O bao gồm: giày dép, dệt may, đồ gia dụng, thực phẩm chế biến, đồ gỗ… Từ đó, tạo lợi thế cho hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi các quốc gia.

Tổng kim ngạch xuất khẩu sử dụng các loại C/O ưu đãi theo FTA năm 2018 đạt 66,2 tỷ USD, chiếm 39% tổng kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường Việt Nam ký FTA.

Tuy nhiên, theo các chuyên gia thương mại, khi kê khai hồ sơ xin cấp C/O ưu đãi các doanh nghiệp thường xuyên để xảy ra lỗi hoặc nhầm tiêu chí giữa các mẫu C/O với nhau.

Thậm chí, nhiều doanh nghiệp còn lấy tiêu chí xuất xứ của mẫu này áp dụng và khai báo cho mẫu khác nên không thể chứng minh được đầy đủ hiện trạng của lô hàng đang xin cấp C/O ưu đãi.

Các chuyên gia cũng chỉ ra việc khai báo thông tin trên C/O lệch với thông tin trên chứng từ, dẫn đến việc bị từ chối hồ sơ, phải sửa đổi bổ sung… Không những thế, các doanh nghiệp còn thiếu các chứng từ cơ bản như đơn xin cấp, mẫu C/O đã khai; hóa đơn thương mại, tờ khai xuất khẩu, chứng từ vận tải hoặc xin nhiều mặt hàng trên cùng một C/O thường thiếu tờ khai xuất khẩu hay thiếu chứng từ chứng minh tiêu chí xuất xứ.

Hỗ trợ tối đa

Theo các chuyên gia thương mại, nhằm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp, thời gian qua Bộ Công Thương đã triển khai hình thức khai báo cấp C/O qua Internet. Vì thế, doanh nghiệp không cần nộp chứng từ giấy đi kèm như tờ khai Hải quan, hóa đơn, vận đơn, bảng tính hàm lượng xuất xứ như trước mà có thể đính kèm dưới dạng dữ liệu điện tử được ký bằng chữ ký số của doanh nghiệp trên Hệ thống quản lý và cấp giấy chứng nhận xuất xứ điện tử (eCoSys) của Bộ Công Thương.

Việc làm này giúp doanh nghiệp không phải in và đóng dấu vào hồ sơ giấy như trước mà chỉ cần nộp đơn xin cấp C/O và form C/O lên Phòng Xuất nhập khẩu khu vực để được xác nhận.

Hơn nữa, khi doanh nghiệp đính kèm chứng từ điện tử lên hệ thống, cán bộ của Bộ Công Thương có thể xem trước hồ sơ và trả kết quả trên hệ thống điện tử.

Trang điện tử cấp C/O trực tuyến của Bộ Công Thương là ecosys.gov.vn. 
Trang điện tử cấp C/O trực tuyến của Bộ Công Thương là ecosys.gov.vn. 

Sau khi nhận được kết quả phê duyệt, doanh nghiệp mới nộp đơn xin cấp C/O và form C/O để được xác nhận, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.

Đặc biệt, khi kết nối với Cơ chế một cửa ASEAN, C/O điện tử sẽ giúp doanh nghiệp thông quan nhanh chóng. Do vậy, các chuyên gia khuyến cáo doanh nghiệp cần đăng ký tham gia và khai báo thông tin trực tuyến trên trang điện tử cấp C/O trực tuyến của Bộ Công Thương là ecosys.gov.vn; khai báo thông tin chính xác với các chứng từ liên quan cho hồ sơ xin cấp C/O.

Bộ Công Thương khuyến khích các doanh nghiệp nên sử dụng cấp C/O qua Intenet để tiện cho việc chứng minh xuất xứ có thể phát sinh sau này, vì chứng từ đã được lưu sẵn trên hệ thống.

Ông Trần Thanh Hải khẳng định, với việc đẩy mạnh Chính phủ điện tử, đơn giản hóa thủ tục hành chính đang được đẩy mạnh, Bộ Công Thương khuyến khích các doanh nghiệp nên sử dụng cấp C/O qua Intenet để tiện cho việc chứng minh xuất xứ có thể phát sinh sau này, vì chứng từ đã được lưu sẵn trên hệ thống.

Bên cạnh đó, đối với các C/O bị lỗi, các doanh nghiệp cần thông báo lại với tổ chức cấp để các tổ chức này thông báo cho đầu mối xuất khẩu tại các nước nhập khẩu.

Để hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp, tới đây Bộ Công Thương tiếp tục đơn giản, hiện đại hóa hoạt động cấp C/O; đồng thời tăng cường các biện pháp chống gian lận xuất xứ để bảo vệ các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam./.

Lấy sức ép cạnh tranh làm động lực phát triển

Xuân Anh

Việt Nam đang là một trong những quốc gia tham gia vào nhiều Hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương và song phương nhất thế giới; trong đó có nhiều hiệp định thương mại tự do quy mô lớn. Với vai trò là đầu tầu kinh tế của cả nước, Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã chủ động triển khai các nội dung liên quan để tận dụng và phát huy hiệu quả các FTA cũng như thích ứng với những thách thức mà các FTA đặt ra.

Thách thức trong việc tận dụng ưu đãi được các chuyên gia và doanh nghiệp chỉ ra là do các quy tắc xuất xứ quá khó, việc gia tăng các hàng rào kỹ thuật, doanh nghiệp thiếu thông tin về các cam kết và cách thực hiện. Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp cũng thừa nhận năng lực cạnh tranh còn yếu so với đối tác trong các FTA. Số liệu mới nhất mà Bộ Công Thương thống kê được là chỉ có khoảng từ 30-40% doanh nghiệp tận dụng tốt các ưu đãi về thuế khi xuất khẩu vào các thị trường có FTA.

Chỉ có khoảng từ 30-40% doanh nghiệp tận dụng tốt các ưu đãi về thuế khi xuất khẩu vào các thị trường có FTA.  

Bà Phạm Quỳnh Mai, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công Thương) phân tích, việc cắt giảm nhiều dòng thuế và mở cửa thị trường đầu tư và thương mại là cơ hội rất lớn cho doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập các thị trường lớn của thế giới, từ đó mở rộng thị trường xuất khẩu. Mặc dù tỷ lệ tận dụng ưu đãi từ các FTA của doanh nghiệp Việt Nam những năm gần đây đều có bước cải thiện, tiêu biểu như các hiệp định thương mại tự do với Nhật Bản, Hàn Quốc, Chile nhưng vẫn chưa thực sự được khai thác tốt.

Điều này xuất phát từ nhiều lý do khác nhau cả khách quan và chủ quan; trong đó có nhiều doanh nghiệp chưa nắm rõ nội dung về các FTA cũng như những lợi thế mà việc cắt giảm thuế mang lại. Mặt khác, có doanh nghiệp dù biết nhưng do năng lực sản xuất, cung ứng còn hạn chế nên không đáp ứng được các yêu cầu về xuất xứ hàng hóa, tiêu chuẩn kỹ thuật để được hưởng ưu đãi.

Đóng gói sản phẩm thủy hải sản xuất khẩu tại nhà máy của Công ty trách nhiệm hữu hạn Huy Nam (Kiên Giang). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Đóng gói sản phẩm thủy hải sản xuất khẩu tại nhà máy của Công ty trách nhiệm hữu hạn Huy Nam (Kiên Giang). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Ông Nguyễn Chánh Phương, Giám đốc Công ty cổ phần AA Long An cho biết, giá trị xuất khẩu và tỷ lệ tận dụng các ưu đãi từ các FTA trong ngành gỗ đang nghiêng về các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất tại Việt Nam.

Hiện nay, doanh nghiệp FDI chỉ chiếm trên 20% tổng số doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ nhưng chiếm tới 45% sản lượng xuất khẩu và hầu hết đều tận dụng được tối đa các ưu đãi từ các FTA mà Việt Nam tham gia.

Doanh nghiệp FDI chỉ chiếm trên 20% tổng số doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ nhưng chiếm tới 45% sản lượng xuất khẩu và hầu hết đều tận dụng được tối đa các ưu đãi từ các FTA mà Việt Nam tham gia.

Nguyên nhân là do các doanh nghiệp FDI xác định rất rõ mục tiêu đầu tư sản xuất tại Việt Nam là để tận dụng các ưu đãi mà hàng hóa Việt Nam có được từ các FTA. Hơn nữa, doanh nghiệp FDI có lợi thế về quy mô, nguồn lực cũng như hiểu rõ các tiêu chuẩn, đặc trưng riêng về đồ gỗ ở thị trường mà họ xuất khẩu.

Ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ hơn, chưa nắm bắt được thị hiếu của thị trường cũng như đáp ứng được các tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật, xuất xứ hàng hóa để được hưởng ưu đãi.

Ông Lê Văn Quang, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Thủy sản Minh Phú cho biết, trong các thị trường xuất khẩu lớn của Minh phú hiện nay thì Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada và Nga là những thị trường đã có FTA với Việt Nam. Sản lượng xuất khẩu vào 4 thị trường này chiếm khoảng 38,5% tổng sản lượng xuất khẩu hàng năm của Minh Phú và Tập đoàn này đang tận dụng rất tốt ưu đãi về thuế từ các FTA chung với Việt Nam.

Theo ông Lê Văn Quang, việc cắt giảm thuế quan tác động tích cực tới khả năng cạnh tranh của thủy sản Việt Nam so với các nước chưa có FTA, từ đó tạo điều kiện  để doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu nhưng để được hưởng ưu đãi thuế cũng không đơn giản.

Chế biến cá tra xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Đầu tư & Phát triển Đa Quốc Gia IDI (Tập đoàn Sao Mai). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Chế biến cá tra xuất khẩu tại nhà máy của Công ty Cổ phần Đầu tư & Phát triển Đa Quốc Gia IDI (Tập đoàn Sao Mai). (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Trong khi hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ thì nhiều quốc gia có xu hướng gia tăng các hàng rào kỹ thuật bằng cách đặt ra các tiêu chuẩn, kỹ thuật mới với hàng nhập khẩu. Đặc biệt, tiêu chuẩn kỹ thuật đối với nhóm hàng nông sản, thủy sản, thực phẩm của các thị trường lớn là rất cao, điều này khiến doanh nghiệp tốn thêm nhiều chi phí để tuân thủ.

Mặt khác, vẫn có những quốc gia tham gia FTA nhưng không thật sự mở cửa cho hàng nhập khẩu. Bên cạnh việc dựng hàng rào kỹ thuật họ còn đưa ra hạn ngạch miễn thuế rất thấp so với nhu cầu thực tế và yêu cầu nhà nhập khẩu phải đấu thầu. Vô hình chung, họ vẫn thu được thuế và doanh nghiệp nhập khẩu phải chịu thêm nhiều chi phí để tham gia đấu thầu, với đơn hàng ngoài hạn ngạch, doanh nghiệp vẫn phải chịu mức thuế thông thường.

Vì vậy, doanh nghiệp mong muốn các cơ quan quản lý của Việt Nam khi tham gia đàm phán các FTA tiếp theo cần xem xét tính hợp lý đối với các đối tác đưa ra hạn ngạch miễn thuế và hình thức tham gia thị trường để đảm bảo nguyên tắc tự do hóa thương mại và bảo vệ lợi ích chính đáng cho doanh nghiệp Việt.

Việc tham gia nhiều FTA là tốt nhưng song song đó các cơ quan chức năng cần định hướng sớm cho doanh nghiệp một cách cụ thể

Trong khi đó, ông Nguyễn Xuân Thủy, Giám đốc Công ty Megahome cho rằng, việc tham gia nhiều FTA là tốt nhưng song song đó các cơ quan chức năng cần định hướng sớm cho doanh nghiệp một cách cụ thể bằng việc cung cấp nhu cầu số lượng, chủng loại hàng hóa mà từng thị trường đang cần cũng như cập nhật các yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, xuất xứ hàng hóa để được hưởng ưu đãi.

“Nếu chỉ đàm phán về mức cắt giảm thuế mà không quan tâm đến việc doanh nghiệp Việt Nam có khả năng đáp ứng được các điều kiện hay có đủ thông tin về thị trường hay không thì các FTA chưa thể mang lại hiệu quả thực tế cho doanh nghiệp và hoạt động xuất khẩu nói chung”, ông Thủy nhấn mạnh.

Bà Nguyễn Thị Tuệ Anh, Phó Giám đốc Viện Nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương nhận định, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận cạnh tranh trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài trên thị trường thế giới và ngay cả thị trường trong nước. Trong bối cảnh đó, doanh nghiệp Việt nên lấy sức ép cạnh tranh làm động lực để đổi mới và phát triển. Cụ thể cần chủ động trong việc tìm hiểu, nắm bắt, cập nhật thông tin về cam kết, thị trường, đối tác, quy tắc xuất xứ.

Dây chuyền sản xuất lốp tại Xí nghiệp Casumina Hóc Môn. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Dây chuyền sản xuất lốp tại Xí nghiệp Casumina Hóc Môn. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Các chuyên gia cho rằng, đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh rất cần tìm hiểu thị trường đối tác trong FTA để sản xuất sản phẩm gì, sản phẩm như thế nào và giá cả bao nhiêu, áp dụng quy tắc xuất xứ ra làm sao… bởi dù thuế suất có thể giảm về 0% nhưng không phải doanh nghiệp Việt Nam muốn sản xuất sản phẩm gì cũng có thể bán được ở thị trường các quốc gia tham gia FTA với Việt Nam.

Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tận dụng các FTA, trong năm 2019 và những năm tiếp theo, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài; tiếp tục cụ thể hóa và làm sâu sắc mối quan hệ với các đối tác. Cùng đó, thành phố đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của thành phố, nhằm thu hút nguồn lực phục vụ 7 chương trình đột phá, 4 ngành công nghiệp trọng điểm của thành phố giai đoạn 2015–2020.

Dù thuế suất có thể giảm về 0% nhưng không phải doanh nghiệp Việt Nam muốn sản xuất sản phẩm gì cũng có thể bán được ở thị trường các quốc gia tham gia FTA với Việt Nam.

Mặt khác, thành phố cũng chủ động tìm kiếm các đối tác tin cậy, các nguồn vốn đầu tư, giới thiệu các thế mạnh và những dự án ưu tiên của thành phố ra bên ngoài. Ngoài ra, nâng cao năng lực hội nhập quốc tế; trong đó triển khai Kế hoạch truyền thông về hội nhập quốc tế trên địa bàn thành phố theo chiều sâu và theo ngành, lĩnh vực để các doanh nghiệp thành phố nắm bắt được những cơ hội do các FTA mang lại, đặc biệt là 2 Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA)./.