Miền Trung lũ chồng lũ, bão chồng bão

Bốn cơn bão liên tiếp, gồm cả siêu bão cộng với một áp thấp nhiệt đới đổ vào miền Trung chỉ trong tháng 10. Khúc ruột, tấm eo thắt nhỏ của dải đất hình chữ S oằn mình trước những cơn mưa lũ kỷ lục. Sạt lở đất diễn ra khắp nơi, từ Huế, Quảng Trị, sang cả Quảng Bình rồi Quảng Nam.

Phóng viên Đoàn Hữu Trung, thường trú tại Quảng Nam, bật khóc khi nhìn cảnh thi thể bé nhỏ được đưa lên từ đống bùn đất trong vụ sạt lở ở Trà Leng.
Phóng viên Đoàn Hữu Trung, thường trú tại Quảng Nam, bật khóc khi nhìn cảnh thi thể bé nhỏ được đưa lên từ đống bùn đất trong vụ sạt lở ở Trà Leng.

159 người được xác định đã thiệt mạng (tính đến 2/11), 71 người vẫn còn đang mất tích. Đâu đó ngoài biển khơi, hoặc dưới lớp bùn đất.

Có những thi thể được đưa lên từ đám bùn nhão, một sinh linh còn quá nhỏ bé, khiến cả những người phóng viên dạn dày, tưởng đã chai sạn cảm xúc cũng phải bật khóc nức nở.

Trời tuôn mưa, và người tuôn nước mắt.

Đồ họa về tổng thiệt hại và lượng mưa ở các tỉnh miền Trung trong tháng 10/2020 (Thực hiện: Võ Hoàng Long-Thanh Trà)

Lý giải về việc xuất hiện bão dồn dập được cho là bất thường tại miền Trung, ông Hoàng Phúc Lâm – Phó Giám đốc Trung tâm Dự báo Khí tượng Thủy văn Quốc gia cho biết nguyên nhân chính thứ nhất là trạng thái đại dương chuyển sang La Nina. Thứ hai là trong tháng Mười, không khí lạnh bắt đầu hoạt động khá mạnh, liên tục có các đợt tăng áp từ phía Bắc cho nên gió Đông Bắc trên khu vực Biển Đông cũng rất mạnh. Cùng với đó, mặt biển trên khu vực Biển Đông còn đang khá ấm, nhiệt độ khá cao 28-30 độ C, thuận lợi cho việc hình thành bão. Các điều kiện trên khiến cho tháng 10, tháng 11 sẽ có bão liên tiếp hình thành trên Biển Đông. 

Vì sao liên tiếp xảy ra sạt lở đất ở miền Trung?

Hùng Võ

Tại sao sạt núi, trượt lở đất khủng khiếp lại liên tiếp xảy ra ở miền Trung, và liệu nguy cơ sạt lở có còn xảy ra khi tình hình mưa bão vẫn đang tiếp diễn? Để tìm câu trả lời, phóng viên VietnamPlus đã có cuộc phỏng vấn phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn, Viện trưởng Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản Việt Nam – đơn vị đã thành lập được các bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá và phân vùng cảnh báo nguy cơ này tại hơn 20 tỉnh, thành phố trên cả nước.

Rủi ro sạt lở vì đất đá bị bão hòa nước

– Thưa ông, vừa qua, khu vực miền Trung đã xảy ra hàng loạt sự cố trượt lở đất đá, gây tổn thất về người và của nghiêm trọng. Vậy nguyên nhân dẫn tới những vụ sạt lở trên là do đâu?

– Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn: Có rất nhiều nguyên nhân, nhiều yếu tố góp phần ra trượt lở. Chẳng hạn nếu ta xem xét một sườn dốc cụ thể thì sẽ có hai nhóm các yếu tố tác động ngược chiều nhau, một gây trượt và một kháng trượt.

Bình thường sườn dốc ổn định thì hai nhóm yếu tố trên cân bằng với nhau. Khi nào nhóm các yếu tố gây trượt thắng thế thì sẽ xảy ra trượt.

Tham gia vào nhóm các yếu tố kháng trượt, chẳng hạn có sức bền của đất đá, được đặc trưng bởi các lực dính kết và lực ma sát. Một sườn dốc khô thì các lực kể trên lớn, vì thế hiếm khi trượt lở xảy ra ở một sườn dốc khô. Tuy nhiên khi sườn dốc bị bão hòa nước thì các lực kể trên giảm đi rất nhiều, vì thế trượt lở thường xảy ra khi sườn dốc bị sũng nước, thông thường sau các trận mưa lớn, kéo dài dầm dề.

Videographics về các vụ sạt lở đất tại miền Trung trong tháng 10/2020 (Thực hiện: Nguyễn Trường)

Thành phần vật chất của đất đá cũng là một yếu tố quan trọng. Chẳng hạn có loại đá rất cứng chắc, có loại thì lại nhiều vật chất sét yếu hơn; có loại dễ bị tác động của mưa gió, nhiệt độ mà bị phong hóa thành đất, có loại thì khó bị phong hóa hơn… Mức độ dập vỡ, nứt nẻ, phân lớp, phân phiến của đất đá cũng là một yếu tố quan trọng cần xem xét khi đánh giá độ ổn định của một sườn dốc…

Cuối cùng, quan trọng nhất đối với độ ổn định của sườn dốc, chúng ta vẫn phải nhắc lại, chính là có hay không có nước. Các nhà khoa học đã đúc kết và đưa ra kết luận rằng nước là kẻ thù số một của sườn dốc. Họ cũng tính rằng chỉ cần mưa với cường độ khoảng 100mm/ngày, hay mưa nhỏ vài chục milimét nhưng kéo dài cả tuần đến chục ngày là đủ để làm đất đá bị bão hòa nước. Và khi đó nếu tiếp tục có một trận mưa lớn đột ngột thì khả năng cao là sẽ gây ra trượt lở.

Theo tôi, các trận trượt lở lớn ở miền Trung vừa qua có một số điểm lưu ý: Một là đất đá đã bị quá bão hòa nước mà thành nhão nhoét. Hai là trượt lở thường xảy ra ở các taluy đường, những nơi sườn dốc tự nhiên bị cắt chân lấy mặt bằng xây dựng cơ sở hạ tầng. Một lưu ý nữa là trượt lở dường như hay xảy ra vào ban đêm, có thể liên quan đến sự thay đổi nhiệt độ, áp lực của nước trong các lỗ rỗng trong đất đá.

Dự báo sạt lở đất “vẫn còn là ước mơ”

– Được biết, Việt Nam đã có bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tại hơn 20 tỉnh, nhưng vì sao cho đến nay vẫn không thể dự báo được sạt lở đất, thưa ông?

– Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn: Sau 8 năm triển khai dự án “Điều tra, đánh giá và phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá các vùng núi Việt Nam,” đến nay, chúng tôi đã thành lập được bản đồ hiện trạng trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 trên 22 tỉnh và bản đồ phân vùng cảnh báo nguy cơ trượt lở đất đá tỷ lệ 1:50.000 cho 15 tỉnh.

Đội cứu hộ và người dân tìm kiếm các nạn nhân trong vụ sạt lở ở Phước Sơn, Quảng Nam (Nguồn: TTXVN)
Đội cứu hộ và người dân tìm kiếm các nạn nhân trong vụ sạt lở ở Phước Sơn, Quảng Nam (Nguồn: TTXVN)

Ngoài các bản đồ trên thì dự án cũng đã triển khai xây dựng một số bản đồ tương tự ở tỷ lệ lớn hơn, 1:25.000 cho một số khu vực trọng điểm và 1:10.000 cho một số xã trọng điểm, có nguy cơ trượt lở cao (đến nay đã triển khai được hơn 50 xã).

Cơ bản các bản đồ kể trên có hai tác dụng: Về ngắn hạn, có thể giúp xác định các khu vực có nguy cơ trượt lở rất cao và cao để có thể tránh hoặc áp dụng các biện pháp ứng phó, cũng như các khu vực có nguy cơ thấp, rất thấp, có thể sơ tán đến khi cần. Về dài hạn, có thể tích hợp, giúp điều chỉnh các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, các quy hoạch phát triển ngành, cơ sở hạ tầng, trung tâm dân cư.

Theo kế hoạch thì trong thời gian tới dự án sẽ xây dựng thêm các bản đồ đánh giá mức độ nguy hiểm trượt lở đất. Tức là hiện nay cứ phân vùng cảnh báo nhưng chưa xem xét đến mức độ nguy hiểm của chúng, sắp tới sẽ xem xét thêm các yếu tố như xác suất, tần suất xảy ra trượt lở, đối tượng có thể bị ảnh hưởng bởi trượt lở… Chắc chắn là các bản đồ kể trên có cảnh báo cũng như góp phần phòng tránh được trượt lở, nếu như chúng được sử dụng một cách triệt để, kịp thời.

Về lý thuyết là có thể dự báo được trượt lở và trên thực tế, ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ tiên tiến trên thế giới như Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, nhất là Hong Kong, người ta đã triển khai các biện pháp quan trắc, giám sát một số sườn dốc cụ thể, quan trọng, thậm chí có thể lắp đặt một số thiết bị quan trắc thời gian thực, giám sát qua internet, dự báo được khá chính xác thời điểm có thể xảy ra trượt lở.

Tuy nhiên xin nhắc lại là chỉ đối với một số sườn dốc quan trọng mà trượt lở xảy ra ở đó có thể gây ra hậu quả lớn về người và cơ sở vật chất. Ví dụ dọc các đường cao tốc, gần các trung tâm dân cư lớn… Còn nhìn chung đối với các sườn dốc tự nhiên, ở các vùng nông thôn, miền núi như Việt Nam thì “đây vẫn còn là ước mơ!”

Những vết sạt lở đất như nước mắt của mẹ thiên nhiên (Nguồn: TTXVN)
Những vết sạt lở đất như nước mắt của mẹ thiên nhiên (Nguồn: TTXVN)

– Vậy để có thể dự báo được sạt lở đất tại một khu vực nhỏ hay địa điểm nào đó cần những yếu tố gì, thưa ông?

– Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn: Như tôi đã chia sẻ ở trên, dự báo được hay không sẽ tùy thuộc vào việc khu vực nhỏ hay địa điểm cụ thể đó có quan trọng hay không, có đáng để áp dụng những biện pháp quan trắc, giám sát thời gian thực đắt tiền hay không. Còn thông thường thì sử dụng những bộ bản đồ hiện trạng, phân vùng cảnh báo vẫn là giải pháp phổ biến nhất.

Điều quan trọng ở đây là chúng ta sử dụng chúng có triệt để không, có đúng lúc, đúng chỗ, đúng tỷ lệ không…

Thủy điện, động đất góp phần gây sạt lở đất

– Bên cạnh yếu tố sạt lở đất tự nhiên do mưa lũ, theo ông, việc xây dựng thủy điện và các công trình ven núi có tác động đến việc sạt lở núi, đất đá?

– Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn: Nói chung là các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, đường sá, thủy điện, cắt chân sườn dốc tự nhiên lấy mặt bằng làm nhà… ít nhiều đều có tác động, đều đóng góp vào làm mất cân bằng sườn dốc. Chỉ có điều là nếu làm cẩn thận, có khảo sát đầy đủ, tính toán, thiết kế chi tiết và thi công chuẩn mực thì tác động sẽ ít hơn, còn không thì tác động sẽ rất lớn, thậm chí trực tiếp gây ra trượt lở.

Ví dụ như xây đập tích nước làm thủy điện. Bình thường không có đập, không có nước thì mực nước trên sông, suối sẽ chỉ ở mức thấp. Nhưng khi có đập, nhất là khi hồ mới tích nước thì mực nước hồ sẽ dâng cao hơn bình thường từ vài mét đến vài chục mét, khiến cho mực nước ngầm trong đất đá cũng dâng lên theo, khiến nhiều phần đất đá bị bão hòa hơn, làm cho sườn dốc có thể trở nên mất ổn định.

Lịch sử xây đập làm thủy điện trên thế giới còn ghi nhớ mãi trận trượt lở lịch sử ở hồ Vajont miền Bắc nước Ý năm 1963. Ngay vào thời điểm hồ tích nước một khối đất khổng lồ hàng triệu mét khối đã trượt xuống hồ, đẩy khoảng 50 triệu mét khối nước trào qua mặt đập, tạo ra một cơn lũ làm chết gần 2.000 người dân ở hạ lưu…

– Ngoài các yếu tố trên, theo ông động đất nhỏ có ảnh hưởng, tác động gì đến khả năng sạt lở đất không khi số lượng động đất nhỏ ở nước ta ngày càng nhiều?

– Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn: Ngoài yếu tố nước thì động đất cũng là một yếu tố, vừa góp phần gây dập vỡ, làm giảm sức bền đất đá, vừa kích hoạt, làm gia tăng lực gây trượt. Động đất tự nhiên ở Việt Nam, ở mức độ đáng phải quan ngại, thường hay xảy ra ở vùng miền núi Tây Bắc như Điện Biên, Lai Châu.

Động đất kích thích với độ nhỏ hơn, thường chỉ đủ để gây lo lắng trong xã hội, có thể xảy ra ở bất kỳ hồ chứa thủy điện quy mô lớn nào đang trong quá trình tích nước. Vấn đề này đã từng xảy ra, chẳng hạn, đối với thủy điện Sông Tranh ở Quảng Nam.

Những giải pháp phòng tránh cấp bách

– Qua thực tế nêu trên, ông có lời khuyên gì đối với các tỉnh có nguy cơ cao sạt lở đất ở khu vực miền Trung, cũng như các tỉnh miền núi trên cả nước, thưa ông?

– Phó Giáo sư – Tiến sỹ Trần Tân Văn: Đây chắc chắn là một đợt mưa bão lịch sử, vượt qua mọi kỷ lục từ trước đến nay. Chính phủ, các địa phương, các bộ ngành, cộng đồng địa phương… đã hết sức nỗ lực để giảm nhẹ hậu quả của lũ lụt, trượt lở đất và nhiều dạng thiên tai kéo theo khác. Tuy nhiên có thể nói là quy mô, độ khốc liệt của thiên tai lần này đã vượt quá nhiều lần khả năng chống chịu của chúng ta.

Sạt lở khiến công tác cứu hộ gặp nhiều khó khăn (Nguồn: TTXVN)
Sạt lở khiến công tác cứu hộ gặp nhiều khó khăn (Nguồn: TTXVN)

Chắc chắn là sau đợt mưa bão này công tác phòng tránh, giảm nhẹ thiên tai của chúng ta sẽ cần phải thay đổi căn bản. Chẳng hạn công tác theo dõi, cảnh báo, ứng phó, cứu hộ, cứu nạn sẽ phải được triển khai đến từng cấp cơ sở, cấp xã, cấp bản và tới từng hộ dân; chính sách bảo hiểm thiên tai sẽ cần phải được thực hiện; thảm rừng cần được phục hồi và bảo vệ một cách thực chất, thực sự nghiêm túc; các dự án thủy điện, thủy lợi, giao thông, cơ sở hạ tầng cần được xem xét một cách cẩn trọng hơn rất nhiều.

Ngoài ra, để phòng tránh, giảm nhẹ nguy cơ, hậu quả trượt lở đất đá, một điều chắc chắn là các bản đồ hiện trạng, phân vùng cảnh báo ở các tỷ lệ sẽ phải được chuyển giao kịp thời và được sử dụng triệt để, hiệu quả hơn nữa. Các diện tích được xác định là có nguy cơ cao cần xác định thêm các vị trí tương đối an toàn, có thể tìm đến sơ tán,…

Ngay lúc mưa bão này nên tránh những vị trí sườn dốc đã bị cắt chân làm đường, lấy mặt bằng xây nhà cửa, cơ sở hạ tầng, tránh các khu vực thủy điện, thủy lợi, tránh ở gần các dòng nước hoặc có khả năng có dòng nước chảy qua, tránh các sườn dốc trên đỉnh thấy xuất hiện các vệt nứt, đọng nước hoặc có nước chảy ra../.

– Trân trọng cảm ơn ông!

Liệu có cách nào chế ngự cơn lũ dữ?

Quang Vinh-Thắng Trung

Việt Nam có hơn 3.000 km bờ biển và nằm trong khu vực châu Á gió mùa, hằng năm phải đối mặt với nhiều cơn bão, xoáy thuận nhiệt đới, chịu tác động của nhiều loại hình thời tiết phức tạp.

Các hiện tượng thiên tai xảy ra hầu như quanh năm và trên khắp mọi miền lãnh thổ, nhưng nhiều nhất là ở miền Trung.

Đặc điểm bão, lũ ở miền Trung

Mùa bão, áp thấp nhiệt đới ở Việt Nam thường vào mùa Hè và mùa Thu, từ tháng 6 đến tháng 11 vì nước ta nằm ở Bắc Bán Cầu. Còn ở Nam Bán Cầu thì mùa bão diễn ra vào tháng 12 đến tháng 3 năm.

Lý do là vì vào thời gian này trong tự nhiên có đầy đủ các điều kiện cho sự hình thành và phát triển của bão: Nhiệt độ nước biển cao (ít nhất là từ 26 độ C trở lên), khí quyển vùng nhiệt đới khá thuận lợi cho sự phát triển đối lưu và chuyển động xoáy quy mô lớn xảy ra khá mạnh mẽ.

Miền Trung nước ta nằm ở vị trí chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây Nam. Gió này mang hơi ẩm nhiều do đi qua Ấn Độ Dương nên thường gây ra mưa. Do bị gió phơn tác động nên khi bão hình thành ở biển Đông thì bị gió đẩy lên phía Bắc.

Càng về các tháng sau, gió càng yếu nên bão có xu hướng dịch chuyển dần về miền Trung. Mỗi năm miền Trung hứng chịu 5-6 cơn bão. Các trận bão biển và gió mùa Đông Bắc thường gây nên những trận mưa lớn ở miền Trung.

Bờ biển miền Trung dài 1.200 km, gồm các tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Do dãy Trường Sơn chạy dọc bờ biển nên đồng bằng ở miền Trung hẹp và dốc với hệ thống sông ngòi chằng chịt.

Công an Thừa Thiên - Huế vận chuyển lương thực hỗ trợ người dân vùng lũ. Ảnh: TTXVN phát
Công an Thừa Thiên – Huế vận chuyển lương thực hỗ trợ người dân vùng lũ. Ảnh: TTXVN phát


Các tỉnh miền Trung có nhiều con sông lớn như sông Mã ở Thanh Hóa, sông Lam (sông Cả) ở Nghệ An, sông Gianh ở Quảng Bình, sông Thạch Hãn ở Quảng Trị, sông Hương ở Thừa Thiên-Huế, sông Thu Bồn ở Quảng Nam, sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi…

Sông, suối nhiều nhưng chiều dài các sông đa số ngắn và có độ dốc lớn. Lưu vực các sông thường là đồi núi nên nước mưa đổ xuống rất nhanh. Các cửa sông lại hay bị bồi lấp, cản trở việc thoát lũ cho vùng đồng bằng.

Tình trạng phá rừng, khai thác cát sỏi bừa bãi, hệ thống đập nước, thủy điện thiếu hợp lý và sự biến đổi khí hậu cũng làm cho tình trạng mưa bão, ngập lụt, sạt lở đất ở miền Trung thêm trầm trọng.

Thạc sĩ Nguyễn Xuân Tiến, Phó Giám đốc Đài Khí tượng thủy văn khu vực Bắc Trung Bộ, cho biết: Nguyên nhân gây mưa rất to ở Bắc Trung Bộ trong nhiều ngày gần đây là do chịu ảnh hưởng hình thế gây mưa lớn điển hình. Đó là tổ hợp của dải hội tụ với bão (hoặc áp thấp nhiệt đới) kết hợp không khí lạnh và địa hình chắn gió Đông Bắc của khu vực, gây ra một đợt mưa rất to và đặc biệt to. Cụ thể, chỉ trong gần 2 tuần, miền Trung đón liên tiếp 2 đợt không khí lạnh. Ngoài ra, sườn phía Đông của dãy Trường Sơn cũng đón một luồng gió mùa Đông Bắc đem hơi ẩm từ trên cao lục địa vào đất liền.

Đây là 2 hình thái thời tiết rất điển hình gây ra mưa lớn cho Trung Bộ hàng năm. Năm nay, các hình thái này xuất hiện cùng lúc, dồn dập, tạo thành một tổ hợp thời tiết cực đoan khiến mưa lũ xuất hiện với lượng lớn và kéo dài nhiều ngày.

Bão lũ chồng chất ở miền Trung là hậu quả của hình thái thời tiết phức tạp, có thể trở thành tình trạng “bình thường mới” trong tương lai. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng lên làm cho nước lũ sẽ khó thoát ra biển và lũ dâng cao hơn so với trước đây.

Ứng phó dài hạn và ngắn hạn

Việt Nam được đánh giá là một trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng mạnh nhất của sự biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu đã thực sự “gõ cửa” Việt Nam từ nhiều năm qua chứ không còn là lời cảnh báo. Các hiện thượng thời tiết cực đoan vừa qua ở miền Trung là một dẫn chứng.

Sự biến đổi khí hậu và nước biển dâng đã có những tác động tiêu cực đến nhiều lĩnh vực tự nhiên, kinh tế, xã hội, môi trường.

Làm rõ việc khí hậu Việt Nam đã, đang và sẽ biến đổi như thế nào, từ đó đánh giá tác động của biến đổi khí hậu để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp, chiến lược và kế hoạch thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm thiểu hậu quả thiên tai.

Thôn Hữu Tân, xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) bị nước lũ bủa vây tứ phía. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)
Thôn Hữu Tân, xã Tân Ninh, huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) bị nước lũ bủa vây tứ phía. (Ảnh: Danh Lam/TTXVN)

Cách ứng phó một cách lâu dài, bền vững với các loại hình thiên tai ở miền Trung nói riêng và trên cả nước nói chung là đưa ra các kịch bản biến đổi khí hậu một cách chính xác và càng chi tiết càng tốt.

Theo Giáo sư, Tiến sỹ Phan Văn Tân (Trường Đại học Khọc tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội), các kịch bản biến đổi khí hậu có thể được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là để xây dựng kế hoạch, chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu.

Bài toán ứng phó với biến đổi khí hậu bao gồm thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm thiểu biến đổi khí hậu. Việc giảm thiểu biến đổi khí hậu nói chung mang tính toàn cầu và đòi hỏi phải có sự đồng thuận của cả cộng đồng quốc tế về vấn đề cắt giảm phát thải khí nhà kính. Thích ứng với biến đổi khí hậu là vấn đề mang tính địa phương mà thông tin từ các kịch bản biến đổi khí hậu là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch, chiến lược.

Ở Việt Nam, những diễn biến bất thường của thời tiết, khí hậu trong nhiều năm gần đây có thể được cho là có liên quan đến sự biến đổi của các hệ thống hoàn lưu khí quyển, đại dương quy mô lớn cũng như sự biến đổi trong hoạt động của gió mùa châu Á.

Bão, áp thấp nhiệt đới có xu hướng dịch chuyển về phía Nam và có quỹ đạo phức tạp, khó dự báo hơn. Hạn hán, lũ lụt xảy ra bất thường hơn. Hiện tượng nắng nóng có xu hướng gia tăng cả về cường độ, tần suất và độ dài các đợt. Số ngày rét đậm, rét hại giảm đi nhưng mức độ khắc nghiệt và độ kéo dài các đợt có dấu hiệu gia tăng.

Nhìn chung, biến đổi khí hậu đã làm gia tăng những hiện tượng cực đoan, dẫn đến sự gia tăng các thiên tai có nguồn gốc khí tượng, tác động xấu đến nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế-xã hội và môi trường.

Việc kết nối tốt hơn giữa quan sát biến đổi khí hậu với các hiện tượng thời tiết cực đoan có thể giúp công tác quản lý rủi ro thiên tai đạt hiệu quả cao hơn. Cùng với đó, sự kết hợp giữa các số liệu quan trắc quá khứ cùng mô hình dự báo khí tượng có ý nghĩa quan trọng để đưa ra các dự báo có tính chính xác cao và kịp thời, nhằm hạn chế tối đa rủi ro mà thiên tai có thể gây ra cho con người và thiên nhiên.

Bài học kinh nghiệm

Về kinh nghiệm từ việc ứng phó với bão lũ vừa qua ở miền Trung, Tiến sĩ Trần Quang Hoài, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống thiên tai, nêu rõ bài học thực tế là không chỉ những vùng, địa phương được dự báo có hướng bão đi qua, mà mọi cấp, ngành cùng toàn dân phải có ý thức luôn thường trực, sẵn sàng dự kiến mọi tình huống có thể xảy ra để ứng phó kịp thời, nhất là khi có tin áp thấp nhiệt đới, bão gần đang “rình rập” ở biển Đông.

Bài học thứ hai là, trong bối cảnh biến đổi của khí hậu, thời tiết diễn biến rất phức tạp, các hiện tượng thiên tai khó lường, không theo quy luật vốn có từ lâu ở nước ta, như kinh nghiệm từ lâu để lại, các địa phương cần chủ động theo dõi sát diễn biến, linh hoạt ứng phó với các hiện tượng thiên tai xảy ra.

Bài học thứ ba là thực hiện “bốn tại chỗ” một cách nghiêm túc, nhất là việc tập trung, điều động nhân lực tại địa bàn cần phải kỹ càng, thường xuyên diễn tập nhằm đối phó kịp thời, cứu hộ những bất trắc xảy ra.

Các vụ sạt lở đất ở Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, Quảng Nam cho thấy, khi xảy ra sự cố, giao thông bị chia cắt thì việc trông chờ vào các lực lượng cứu hộ từ bên ngoài là không khả thi.

Bài học thứ tư, cần cố gắng đến mức cao nhất, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác dự báo dù điều này đòi hỏi sự đầu tư chất xám, phương tiện và kỹ năng rất lớn. Nhưng khi đã có dự báo chính xác thì việc đưa thông tin đến người dân, các cơ quan chức năng kịp thời, có sức thuyết phục cũng rất quan trọng.

Bài học thứ tư, cần cố gắng đến mức cao nhất, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác dự báo dù điều này đòi hỏi sự đầu tư chất xám, phương tiện và kỹ năng rất lớn. Nhưng khi đã có dự báo chính xác thì việc đưa thông tin đến người dân, các cơ quan chức năng kịp thời, có sức thuyết phục cũng rất quan trọng.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết: Đợt thiên tai vừa rồi rất bất thường, chưa bao giờ 4 cơn bão liên tiếp đổ vào miền Trung. Ngay trong tháng 1/2020, ngành khí tượng-thủy văn đã cảnh báo rằng năm nay sẽ có 4-5 cơn bão đổ về miền Trung…

Thứ năm, cần phải làm tốt công tác quản lý, hướng dẫn, thông báo đối với tàu, thuyền khi có mưa bão xảy ra, đặc biệt là công tác quản lý các tàu vận tải, tàu vãng lai hoạt động trên sông, trên biển. Trước khi cơn bão số 9 tràn vào Biển Đông, mặc dù đã có sự cảnh báo nhưng nhiều chủ tàu đánh cá ở miền Trung vẫn cho tàu ra khơi hoặc chậm trễ trong việc tránh trú.

Bộ độ sơ tán người dân khỏi vùng lũ (Nguồn: TTXVN)
Bộ độ sơ tán người dân khỏi vùng lũ (Nguồn: TTXVN)

Bên cạnh đó, phải hoàn thiện bộ máy phòng, chống thiên tai theo hướng tinh gọn, chuyên trách. Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Hoàng Hiệp phân tích: “Lực lượng công an, quân đội trong thời gian qua đã tham gia rất tích cực, nhưng điều chúng ta rất cần là một lực lượng cứu hộ chuyên nghiệp, được trang bị phù hợp với mọi điều kiện cần thiết.

Trong thời gian vừa rồi đã xảy ra những trường hợp là chúng ta không có phương tiện nào để vào hiện trường ứng cứu nạn nhân bị vùi lấp (tại Thừa Thiên-Huế, Quảng Nam). Các bộ, ngành chức năng đã báo cáo Thủ tướng về vấn đề này để có giải pháp trong thời gian tới.”

Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp cho biết, hạ tầng của chúng ta có sức chịu đựng thiên tai ở một mức độ nào đó, đê biển hiện được xây dựng để chịu được bão cấp 9, cấp 10; nếu bão lên cấp 15 thì kinh phí xây dựng phải lớn gấp đôi, chúng ta chưa đủ điều kiện.

Các nơi neo đậu tàu tránh trú bão mới đáp ứng khoảng 46% nhu cầu, chưa nói đến việc một bộ phận ngư dân chưa chấp hành tốt các quy định về ứng phó thiên tai.

Điều đáng quan tâm là các vụ sạt lở đất gây thiệt hại lớn về người, phức tạp và không theo quy luật. Vừa qua, nhiều vụ sạt lở đất xảy ra tại những nơi ổn định về địa chất, không có trong bản đồ cảnh báo, nên cần ứng dụng khoa học-công nghệ tốt và nhanh hơn.

Hiện mới có trên 10 tỉnh có bản đồ về nguy cơ sạt lở, tuy nhiên đó mới là bản đồ tỷ lệ 1/5.000; muốn triển khai cụ thể phải có bản đồ 1/500.

Nếu theo bản đồ 1/5.000 thì một lúc phải sơ tán cả vài xã, nên không thể triển khai được, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Hiệp nêu vấn đề tại cuộc họp báo thường kỳ tháng 10 của Chính phủ và đề nghị trong thời gian tới phải có đầu tư nhiều hơn cho công tác này.

Quảng Bình: Bộ đội Biên phòng đồng hành cùng bà con vùng biên khắc phục mưa lũ
Quảng Bình: Bộ đội Biên phòng đồng hành cùng bà con vùng biên khắc phục mưa lũ