Nghiên cứu của CUHK về vai trò cấu trúc của sở hữu trong công ty gia đình

HỒNG KÔNG, TRUNG QUỐC – Media OutReach – Cơ cấu sở hữu đóng một vai trò quan trọng trong các ưu đãi và hành vi của các tổ chức kinh doanh. Những ảnh hưởng của sự phân tán quyền sở hữu công ty giữa các nhà quản lý và nhà đầu tư đã được kiểm […]

HỒNG KÔNG, TRUNG QUỐC – Media OutReach – Cơ cấu sở hữu đóng một vai trò quan trọng trong các ưu đãi và hành vi của các tổ chức kinh doanh. Những ảnh hưởng của sự phân tán quyền sở hữu công ty giữa các nhà quản lý và nhà đầu tư đã được kiểm tra trong các nghiên cứu trước đây. Tuy nhiên, Giáo sư Joseph P. H. Fan, Giáo sư Trường Kế toán và Khoa Tài chính thuộc Trường Kinh doanh của Đại học Hồng Kông (CUHK) đã mở rộng việc nghiên cứu vấn đề này bằng cách kiểm tra các vai trò của cấu trúc sở hữu trong một doanh nghiệp do gia đình kiểm soát.

Nghiên cứu có tựa đề “The impact of ownership transferability on family firm governance and performance: The case of family trusts” (tạm dịch: Tác động của khả năng chuyển quyền sở hữu đối với việc quản trị và hiệu quả của công ty gia đình: Trường hợp quỹ tín thác gia đình”) đã xem xét cụ thể về cấu trúc về quỹ tín thác gia đình, thường được sử dụng trong Danh sách Fortune 500 công ty gia đình.

Các công ty được kiểm soát bởi quỹ tín thác gia đình (family trust) hoặc các cấu trúc tương tự bao gồm Thời báo New York, chuỗi cửa hàng bách hóa Wal-Mart (Mỹ) và doanh nghiệp bán lẻ đồ nội thất toàn cầu Ikea (Thụy Điển).

Giáo sư Joseph P.H. Fan nhận xét: “Quỹ tín thác gia đình thường được thiết lập để tránh thuế thừa kế, bảo vệ tài sản trước các sự kiện không mong muốn như ly hôn, phá sản, thuế và bị mua lại một cách thù địch, không mong muốn. Cấu trúc tín thác thường khóa quyền sở hữu chi phối trong một gia đình trong một thời gian rất dài”.

Với sự cộng tác của Tiến sĩ Winnie S. C. Leung thuộc Đại học Hồng Kông, công trình nghiên cứu tập trung vào 216 công ty gia đình riêng biệt có cổ phiếu được niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông, bao gồm 72 công ty sử dụng tín thác gia đình và 144 công ty sử dụng quyền sở hữu trực tiếp.

Dữ liệu phục vụ cho công trình nghiên cứu được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến năm 2008, bao gồm việc bãi bỏ thuế thừa kế năm 2006 tại Hồng Kông, chấm dứt lợi thế về thuế của các quỹ tín thác gia đình. 84 trong số các công ty hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, 52 trong lĩnh vực tài chính, bảo hiểm và bất động sản và 44 trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ.

Cái giá phải trả do tranh chấp trong nội bộ gia đình

Khác với các nghiên cứu trước đây gần như chỉ tập trung vào các tranh chấp xung đột giữa người trong công ty và người ngoài, nghiên cứu của Giáo sư Joseph P.H. Fan đã xem xét đến tác động của cấu trúc sở hữu trong gia đình và xung đột giữa các thành viên gia đình đối với các hành vi và hoạt động của công ty. Ví dụ, ông đã nhận thấy rằng, cấu trúc anh chị em của một gia đình, đặc biệt là khoảng cách tuổi tác giữa con trai đầu tiên và con trai cuối cùng của người sáng lập, có thể là một nguồn gốc của sự xung đột.

Giáo sư Joseph P.H. Fan cho rằng, những người sáng lập của các công ty không phải lúc nào cũng có thể dự đoán chính xác hậu quả của việc áp dụng cấu trúc tín thác gia đình. Cụ thể, họ có thể đánh giá thấp chi phí giữ hòa hợp gia đình, hoặc chống lại tranh chấp gia đình, khi một sự tin tưởng gắn kết con cháu trong công việc kinh doanh của gia đình.

Giáo sự Fan nhận xét: “Khi khoảng cách tuổi tác lớn, con trai hay con gái được cho là có nhiều sở thích đa dạng hơn và hệ tư tưởng rất khác nhau để quản lý các vấn đề gia đình. Khoảng cách tuổi tác lớn cũng cho thấy tiềm năng xung đột cao. Việc hạn chế chuyển nhượng cổ phần có thể khiến các thành viên trong gia đình né tránh, khiến mâu thuẫn gia đình trở nên khó giải quyết và làm sai lệch các quyết định của công ty”.

Giáo sư Fan nêu ra một trường hợp nổi bật của Sun Hung Kai Properties, một công ty phát triển bất động sản hàng đầu và là tập đoàn kinh doanh lớn thứ hai ở Hồng Kông. Ông Kwok Tak-seng người sáng lập ra Công ty chuyển quyền kiểm soát của công ty thành tín thác của gia đình như một phần trong kế hoạch kế nhiệm của mình, trước khi ông qua đời vào năm 1990. Quỹ tín thác này được thiết lập ở Jersey với quy tắc có hiệu lực 100 năm và với vợ ông cùng ba người con trai là đối tượng thụ hưởng. Quỹ tín thác đã chỉ định ba người con trai cùng quản lý việc kinh doanh của gia đình. Thật không may, có hai trong số ba anh em đã không thể sống hòa thuận với nhau sau khi ông Kwok Tak-seng qua đời.

Một trường hợp cụ thể khác là gia đình ông Lo, gia đình sáng lập ra Great Eagle Group – tập đoàn phát triển bất động sản nổi tiếng tại Hồng Kông. Tập đoàn cũng là một nạn nhân của cuộc chiến gia đình, trong đó quyền sở hữu của gia đình là trung tâm của sự tranh chấp.

Giáo sư Joseph P.H.Fan bình luận:”Hầu như không có một lối thoát khỏi cơ cấu sở hữu gia đình bởi vì các cổ phần gia đình đã bị khóa trong quỹ tín thác. Quỹ tín thác này thực sự đã kéo dài sự đấu đá trong nội bộ của gia đình và giá trị doanh nghiệp của Great Eagle Group đã bị xói mòn đáng kể trong suốt quá trình tranh chấp này”.

Giáo sư Fan giải thích thêm rằng, khả năng chuyển quyền sở hữu là một cơ chế quan trọng để giải quyết tranh chấp giữa các thành viên trong gia đình. Ông nhận xét: “Khi các thành viên gia đình trực tiếp nắm giữ quyền sở hữu, thu nhập hoặc cổ tức và quyền biểu quyết của họ được phân định rõ ràng. Nếu một thành viên trong gia đình quyết định rời khỏi doanh nghiệp gia đình, họ có thể chỉ cần bán cổ phần của mình cho gia đình hoặc cho người ngoài. Nói cách khác, sau khi bán số cổ phần của mình, những thành viên gia đình có thể có một món tiền rất lớn, trong khi các thành viên gia đình mua lại một cách tích cực có thể có thêm động lực mạnh mẽ hơn và có quyền kiểm soát công ty. Ngược lại, việc sử dụng ủy thác gia đình sẽ ngăn chặn quyền chuyển nhượng quyền sở hữu gia đình và chặn kênh mua lại này”.

Những hậu quả tiêu cực của việc sử dụng quỹ tín thác gia đình

Việc sử dụng quỹ tín thác gia đình gây ra vấn đề chung về nhóm. Thông qua các cuộc hôn nhân và có con, gia đình nắm quyền kiểm soát sẽ tăng số lượng người và sự phức tạp cũng tăng theo thời gian. Ngày càng có nhiều thành viên gia đình được thêm vào như là người thụ hưởng quỹ tín thác. Tuy nhiên, trong một môi trường cạnh tranh gay gắt, những người thụ hưởng quỹ tín thác gia đình có xu hướng khai thác các nguồn lực từ doanh nghiệp gia đình vì lợi ích của chính họ và duy trì ít hơn cho sự phát triển của công ty trong tương lai.

Giáo sư Joseph P.H.Fan nhận định: “Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng, khi tiềm năng xung đột gia đình tăng lên, các công ty áp dụng quỹ tín thác gia đình có xu hướng chi trả cổ tức cao hơn, chi tiêu vốn thấp hơn và hiệu suất kém hơn. Hơn nữa, đối với các công ty sử dụng quỹ tín thác gia đình, các nhà quản lý gia đình có thể khó củng cố quyền kiểm soát để đưa ra các quyết định quan trọng một cách kịp thời. Các kết quả ủng hộ giả thuyết của chúng tôi rằng sự lựa chọn quỹ tín thác gia định của người sáng lập đánh giá thấp tiềm năng xung đột gia đình, làm sai lệch hành vi của người quản lý gia đình khi đưa ra quyết định của công ty”.

Khi quy mô của gia đình tăng lên theo thời gian, quyền dòng tiền trung bình của một người thụ hưởng gia đình nhất định bị thu hẹp. Điều này càng thúc đẩy những người thụ hưởng tập trung vào thời hạn ngắn hạn. “Khi Quỹ tín gia đình không có lối thoát để giải quyết xung đột, thì việc củng cố quyền kiểm soát là rất khó khăn. Những gia đình không hạnh phúc với quyền sở hữu được quỹ tín thác có thể cản trở sự phát triển của công ty và phá hủy giá trị doanh nghiệp”, giáo sư Fan cảnh báo.

Giáo sư Joseph P.H.Fan cho biết: “Nghiên cứu của chúng tôi không chỉ bổ sung vào các tài liệu học thuật hiện có, mà còn là tài liệu dành cho các chủ doanh nghiệp và các học viên tìm hiểu thêm khi dự tính về cấu trúc sở hữu của các công ty mà họ phục vụ. Do thiếu thông tin, chúng tôi không thể kiểm tra vai trò của quản trị gia đình trong việc giảm thiểu tiềm năng xung đột gia đình và xem xét các hành vi tin cậy ban đầu, khi chúng bao gồm các điều khoản phòng ngừa xung đột. Cả hai vấn đề quan trọng này đều cần được nghiên cứu thêm”.

Tài liệu tham khảo

Joseph P.H.Fan và Winnie S.C.Leung, The impact of ownership transferability on family firm governance and performance: The case of family trusts (tạm dịch: Tác động của khả năng chuyển quyền sở hữu đối với việc quản trị và hiệu quả của công ty gia đình), Journal of Corporate Finance (2018) – Tạp chí quản trị tài chính doanh nghiệp (2018).

Thông tin về Trường Kinh doanh thuộc CUHK

Trường Kinh doanh thuộc CUHK bao gồm 2 trường – Kế toán và Quản lý khách sạn & Du lịch – và 4 khoa – Khoa học phục vụ việc ra quyết định và Kinh tế quản lý, Tài chính, Quản lý và Marketing. Được thành lập tại Hồng Kông vào năm 1963, đây là trường kinh doanh đầu tiên cung cấp các chương trình cử nhân về quản trị kinh doanh (BBA), thạc sỹ về quản trị kinh doanh (MBA) và thạc sỹ về quản trị kinh doanh cấp cao (Executive MBA – EMBA) trong khu vực. Hiện tại, Trường cung cấp 8 chương trình đại học và 20 chương trình sau đại học, bao gồm MBA, EMBA, Thạc sỹ, MSc, MPhil và Tiến sỹ (Ph.D.).

Trong Bảng xếp hạng MBA toàn cầu của Financial Times 2019, chương trình MBA của CUHK được xếp hạng thứ 57. Trong bảng xếp hạng EMBA 2018 của Financial Times, chương trình EMBA của CUHK được xếp hạng 29 trên thế giới. Trường Kinh doanh của CUHK có số lượng cựu sinh viên kinh doanh lớn nhất (hơn 36.000 người) trong số các trường đại học / trường kinh doanh tại Hồng Kông. Nhiều người trong số họ hiện là lãnh đạo doanh nghiệp chủ chốt. Trường hiện có khoảng 4.400 sinh viên đại học và sau đại học và Giáo sư Kalok Chan là Hiệu trưởng Trường Kinh doanh của CUHK.

Để biết thêm thông tin, hãy truy cập www.bschool.cuhk.edu.hk hoặc kết nối với Trường Kinh doanh của CUHK trên Facebook:www.facebook.com/cuhkbschool và LinkedIn:www.linkedin.com/school/3923680/.

Tin cùng chuyên mục