Đáp ứng yêu cầu của lịch sử
100 năm đã qua, kể từ ngày 5/6/1911, với tên là Văn Ba, anh thanh niên NguyễnTất Thành (sau này mang nhiều tên khác, trong đó có những cái tên nổi tiếng làNguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh) rời Cảng Sài Gòn ra đi tìm con đường mớiđể cứu nước.
Cuối năm 1920, với sự kiện tham gia Đại hội Tua của Đảng Xã hội Pháp và ngaysau đó tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Người đã chính thức tìm thấy conđường cứu dân, cứu nước đúng đắn - con đường theo cách mạng vô sản, theo chủnghĩa Marx-Lenin, mở ra một hướng phát triển mới cho dân tộc Việt Nam. Suốt cảcuộc đời, Hồ Chí Minh hiến dâng cho sự chấn hưng của dân tộc Việt Nam , cho mụcđích cuối cùng và cao cả là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội-giai cấp, giảiphóng con người. Hiện nay, dân tộc Việt Nam đang tiếp tục đi theo con đường pháttriển của Hồ Chí Minh đã vạch ra. Điều này càng làm nổi rõ sự tác động lớn laocủa người Anh hùng dân tộc vĩ đại [1] Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh là người đằm mình trong các sự kiện trọng đại nhất của dân tộc ViệtNam và của các biến cố trên thế giới. Hồ Chí Minh là một phần tác động tích cựccho sự phát triển của lịch sử Việt Nam thời hiện đại và cũng là một phần nhân tốthúc đẩy lịch sử tiến hóa xã hội của loài người từ thế kỷ XX trở đi. Hồ Chí Minhthường đi trước, đi trong, hoặc song hành, chứ không đi sau các sự kiện lớn củadân tộc và trên thế giới. Hồ Chí Minh tác động mạnh mẽ vào chúng cũng như cácbiến cố của dân tộc và nhân loại có một chiều khác, ngược trở lại, tác động vàoHồ Chí Minh.
Điểm đầu tiên tôi muốn nhấn mạnh trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh làNgười đã có ý thức rõ ràng đi tìm một con đường cứu nước, cứu dân mới vào đầuthế kỷ XX khi các con đường cứu nước do các vị cách mạng tiền bối nêu lên vàthực thi đều bị bế tắc. Chắc chắn rằng, phải có một tư duy mẫn cảm với thờicuộc, phải có một tinh thần vượt trội thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước nồng nàn,lòng dũng cảm, ý chí lớn lao và tinh thần phê phán đúng đắn thì mới có được sựra đi của Người vào ngày 5/6/1911.
Trong cả thời thơ ấu, Người đã được tận mắt chứng kiến cảnh đất nước rên xiếtdưới gông cùm của chế độ thực dân-phong kiến, thấy được cảnh người lao động bịáp bức, bóc lột, được nghe các bậc cha anh nặng lòng yêu nước bàn luận về thếsự…rồi vào trạc tuổi 13 đã nảy sinh muốn đi sang Pháp và các nước phương Tây tìmhiểu những điều ẩn giấu đằng sau những từ “Tự do-Bình đẳng-Bác ái” - vốn là khẩuhiệu cao đẹp của Đại Cách mạng Pháp.
Hồ Chí Minh tự nguyện từ bỏ được tư vị của một anh học sinh con quan trên conđường thường thấy của nhiều con quan phong kiến lúc đó là học tập để trở thànhtrí thức thuộc địa-phong kiến, trở thành một công chức của chính quyền thực dânở Đông Dương; không chấp nhận con đường “Đông Du” đang hấp dẫn đối với nhiềuthanh niên (sang Nhật Bản học tập) do Cụ Phan Bội Châu khởi xướng và dẫn dắt đầuthế kỷ XX.
Vào thời đó, yêu nước, thậm chí yêu nước nhiệt thành thì có nhiều người, đâuchỉ có Nguyễn Tất Thành, nhưng yêu nước để có một tư duy mẫn cảm, tư duy phêphán sắc sảo về các con đường cứu nước trước đấy hoặc đương thời của các bậc chaanh rồi ra đi tìm con đường cứu nước mới, thì dường như chỉ có ở Nguyễn TấtThành. Như vậy là yêu cầu cho sự mở đường phát triển của lịch sử dân tộc ViệtNam đã được đặt vào đúng Nguyễn Tất Thành và Người đã nhận trọng trách đó suốtcả cuộc đời oanh liệt đầy gian khổ hy sinh của mình.
Điểm thứ hai trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh là không phải bất cứ aiđều thành công trong việc đi tìm con đường cứu nước mới. Những bậc anh hùng hàokiệt của Cần Vương như những ngôi sao lóe lên trên bầu trời đất Việt khoảng hơn10 năm cuối thế kỷ XIX. Phong trào Cần Vương bị thực dân Pháp dập tắt nhưng ngọnlửa yêu nước không tắt. Đầu thế kỷ XX, các phong trào mới xuất hiện, mới cả vềcon người lãnh đạo nhưng quan trọng hơn là mới cả về tính chất, về hệ tư tưởngvà đương nhiên mới cả về cách tổ chức lực lượng.
Chống thực dân Pháp, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc thì tất cả các phongtrào yêu nước đều giống nhau, nhưng rồi để thiết lập một Nhà nước Việt Nam nhưthế nào, một chế độ chính trị ra sao, tập hợp lực lượng nào, theo sự chỉ dẫn củalý luận chính trị nào thì khác nhau một trời một vực. Chống Pháp mượn danh nghĩacủa nhà vua rồi trở về chế độ phong kiến (Cần Vương) thì đã lỗi thời, không hợpxu thế. Mà đã như thế thì khó tránh khỏi thất bại.
Chính trong bối cảnh đó, xuất hiện luồng gió mới mà những trí thức Việt Nam yêunước là những người cảm nhận được trước hết. Sẵn lòng yêu nước, nhạy cảm vớithời cuộc, qua tiếp xúc với một số sách báo tiếng Pháp, tiếng Trung Hoa, họ bắtgặp tư tưởng dân chủ tư sản. Dù thực dân Pháp cố tình bưng bít như thế nào đichăng nữa song những tư tưởng của Cách mạng Pháp năm 1789, của Cách mạng Nga(1905-1907), của trào lưu tư tưởng tư sản Trung Quốc, nhất là cuộc Cách mạng TânHợi năm 1911 với tư tưởng “Tam dân” của lãnh tụ Tôn Trung Sơn... vẫn dội vàoViệt Nam. Hơn nữa, cùng với nhịp điệu ngày càng tăng của sự khai thác thuộc địacủa thực dân Pháp, xã hội Việt Nam ngày càng phân hóa mạnh mẽ hơn.
Đầu thế kỷ XX, những giai cấp, tầng lớp mới xuất hiện: giai cấp vô sản, tầnglớp tiểu tư sản, trí thức. Đồng thời, nhiều sĩ phu vốn thuộc thành phần giai cấpphong kiến, theo Nho học, sau bao trăn trở trước thời cuộc, đã chuyển mình sanglập trường dân chủ tư sản. Nổi bật nhất đầu thế kỷ XX là phong trào cứu nước doCụ Phan Bội Châu lãnh đạo với mục đích giành độc lập dân tộc bằng bạo động vũtrang để lập chế độ đại nghị cộng hòa. Cụ Phan Bội Châu đề ra các phong trào:Đông Du (1906-1908), Việt Nam Quang phục hội (1912).
Cùng với với các phong trào của Cụ Phan Bội Châu là các cuộc vận động Duy Tân(1906-1908) do Cụ Phan Châu Trinh lãnh đạo và phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục(1907) cổ vũ lòng yêu nước, vận động học quốc ngữ, vận động thực thi đời sốngmới, v.v. Ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến đã bị bẻ gẫy. Ngọn cờ cứunước theo hệ tư tưởng tư sản tuy là mới ở Việt Nam nhưng cũng không đáp ứng nổiyêu cầu phát triển của dân tộc.
Phong trào của Cụ Phan Bội Châu hoạt động theo lối vũ trang bạo động thì bịthực dân Pháp đàn áp đã đành, nhưng các phong trào yêu nước khác theo lối cảilương, cải cách (“Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh,” “Bất bạo động, bạođộng tắc tử” - Phan Châu Trinh) mà cũng bị thực dân Pháp không cho đất sống. Anhdũng có thừa, máu đào của các bậc tiên liệt đã đổ xuống nhưng cây độc lập-tự dovẫn không ra hoa kết trái.
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới ở vào quãng thời gian đặc biệtđó của lịch sử dân tộc Việt Nam. Ở Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ ChíMinh hội đủ những yếu tố cần thiết cho sự dấn thân vào quá trình tìm đường, mởđường, dẫn đường cho dân tộc Việt Nam phát triển: ý chí lớn lao, tinh thần hamhọc hỏi, sẵn sàng vượt qua bao gian truân, từ một anh thanh niên học sinh gàygò, mảnh khảnh tự nguyện hòa vào cuộc sống của người lao động chân tay (thuộc vềgiai cấp cần lao) để trực tiếp cảm nhận về thời cuộc... Lúc Người rời bến NhàRồng để đi sang Pháp và các nước phương Tây, chỉ với hai bàn tay và khối óc đầynhiệt huyết sẵn sàng chấp nhận mọi hiểm nguy. Đến nước nào, Người cũng làm việcđể kiếm sống và hoạt động. Đi đến đâu Người cũng tự nghiên cứu, tự học.
Cả cuộc đời của Người là sự tu dưỡng, rèn luyện, coi tất cả các sự kiện củacuộc sống là những bài học sống động cho mình. Hồ Chí Minh không có bằng cấp củahọc đường, nhưng ở Người hội đủ những tri thức uyên bác, cổ kim Đông-Tây, làsự chắt lọc, tiếp biến văn hóa, đúc kết thành khối tri thức và bản lĩnh chínhtrị, nhân cách cao đẹp của con người Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh. Nguyễn ÁiQuốc tiếp nhận chủ nghĩa Marx-Lenin qua đó tìm thấy con đường cứu nước đúng đắnlà bởi những yếu tố đó, khác với những người Việt Nam ở Pháp lúc đó cũng giỏigiang nổi tiếng: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn AnNinh…
Điểm thứ ba trong sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh là tìm được con đường cứunước đúng đắn rồi, không phải cứ thế con đường đó được vận hành suôn sẻ vào ViệtNam. Sau năm 1920 là thời gian trường kỳ truyền bá, huấn luyện, tổ chức để đưacon đường cứu nước đúng đắn về thực hành trên đất nước Việt Nam, mà một vấn đềcó tính then chốt nhất là thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam - một tổ chức có tínhquyết định đến sự thành bại của cách mạng Việt Nam, một tổ chức vạch đường, chỉlối, lãnh đạo đoàn kết toàn dân tộc, hòa cùng thời thế, kết hợp sức mạnh dân tộcvới sức mạnh thời đại, đoàn kết trong nước với đoàn kết quốc tế để cho dân tộcViệt Nam phát triển trên con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xãhội.
Hồ Chí Minh mở ra con đường mới và dẫn dắt toàn Đảng, toàn dân đi theo con đườngđộc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội với cả trái tim đầy nhiệt huyết,bộ óc sáng suốt và gương sáng cả cuộc đời con người luôn luôn vươn tới những giátrị của Chân, Thiện, Mỹ, của đạo đức cách mạng trọn vẹn của cuộc đời. Hồ ChíMinh là một trong những nhân vật tiêu biểu trong lịch sử nhân loại có tác độngmãnh liệt vào tiến trình phát triển.
Sự nghiệp của Hồ Chí Minh, con đường Hồ Chí Minh tìm thấy và dẫn dắt mọingười dân Việt Nam yêu nước dựa vào nền văn hoá mà trên đấy biểu đạt những giátrị toàn cầu, những khát vọng của con người, của các dân tộc khác nhau, có bảnsắc, cốt cách, đặc tính khác nhau nhưng thống nhất, hài hoà trong những giá trịchung nhất, tốt đẹp nhất mà con người toàn nhân loại và các dân tộc trên thếgiới khát khao vươn tới. Đó là sự thống nhất trong đa dạng. Người tìm đường, mởđường và dẫn đường mang tên Hồ Chí Minh đã khuếch những cái đa dạng ấy lên, kếtdính sự thống nhất đó vào một khối văn hóa đầy sức sống để bảo tồn, thúc đẩychân, thiện, mỹ thúc đẩy cho sự chấn hưng đất nước Việt Nam trong các thời kỳcách mạng.
Hồ Chí Minh luôn luôn sống trong những nhịp đập của đất nước, vì sự nghiệp củaNgười, tư tưởng của Người vẫn đồng hành cùng dân tộc. Điều tuyệt diệu là ở chỗđó. Nếu thân thế và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là củathời gian Hồ Chí Minh sống thôi, thì giá trị cuộc đời Hồ Chí Minh không lớn lắm.Hồ Chí Minh để lại một sự nghiệp, một tư tưởng ngời sáng, trở thành giá trị vănhóa, mà khi đã trở thành giá trị văn hóa thì có sức sống mãnh liệt, có sức lantỏa, thẩm thấu vô biên, nhập vào các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc vànhân loại.
Sự tiếp nối giá trị của con đường
Hồ Chí Minh không phải là một nhân vật huyền thoại theo nghĩa là nhiều điềukhông có thực mà cái đức, cái tâm, cái tầm, cái trí, cái tài của Hồ Chí Minh đãthành giá trị thực luôn hiển hiện trong tâm khảm của mỗi một người dân yêu nước,trong các thế hệ người Việt Nam. Sự nghiệp của Hồ Chí Minh còn dang dở, và ngườiViệt Nam yêu nước các thế hệ, khắp các phương trời đang tiếp bước Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có trong hành trang của dân tộc Việt Nam và nhân loại cầnlao tiến bước vào văn minh, tiến bộ. Cả cuộc đời Hồ Chí Minh chính là một thôngđiệp cho sự phát triển. Và, chính vì như vậy, giá trị cuộc đời Hồ Chí Minh trởthành một tài sản tinh thần quý báu cho dân tộc Việt Nam và - rộng hơn nữa - chonhân dân lao động trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh qua đời năm 1969, lúc sự nghiệp cách mạng nước ta đang ở vào thờiđiểm rất cam go: cuộc chống Mỹ, cứu nước đang ở vào giai đoạn quyết liệt nhấtsau Mậu Thân; sự nghiệp xây dựng miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương của tiềntuyến lớn miền Nam cũng đang gặp nhiều khó khăn; sự bất đồng trong phong tràocộng sản, công nhân quốc tế, phong trào xã hội chủ nghĩa diễn ra ngày càng trầmtrọng, đặc biệt là đối với hai Đảng Cộng sản và hai Nhà nước Liên Xô và TrungQuốc. Điều này trước hết ảnh hưởng không thuận lợi đến sự ủng hộ, chi viện chocách mạng Việt Nam.
Đi theo con đường của Người, thực hiện tốt sự chỉ dẫn của Hồ Chí Minh ghitrong tài liệu “Tuyệt đối bí mật” (Di chúc), cách mạng Việt Nam đã vượt quanhiều khó khăn, thử thách và giành được nhiều thắng lợi: toàn thắng trong sựnghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc; đưa cả nước lên chủ nghĩa xãhội, đổi mới toàn diện đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, côngbằng, văn minh, phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản đưa nước ta trở thành một nướccông nghiệp theo hướng hiện đại. Trong những cơn biến động chính trị phức tạphai thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và trong dòng xoáy của toàn cầu hóa, hộinhập quốc tế, Việt Nam biết vượt qua thử thách, nắm bắt thời cơ để ổn định chínhtrị, phát triển bền vững, thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển...
Có được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử như vậy là do Đảng Cộngsản và nhân dân Việt Nam đoàn kết một lòng, tin theo chủ nghĩa Marx-Lenin, coitư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Marx-Lenin là tài sản tinh thần quý báucủa Đảng và dân tộc trên con đường phát triển. Sự nghiệp đổi mới đất nước càngđi vào chiều sâu thì chúng ta càng thấy sự sáng suốt của Đảng khi quyết định lấychủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ namcho hành động.
Sự nhân lên sức mạnh ý nghĩa của sự kiện lịch sử ngày 5/6/1911 cách đây 100 nămcũng như sự tiếp nối con đường của Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay thể hiệnchủ yếu ở chỗ:
Trước hết, kiên định, kiên định hơn nữa; sáng tạo, sáng tạo hơn nữa. Đó là sựkiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, thực hiện tốtCương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,phát triển năm 2011).
Mọi sự nghiêng ngả con đường đều không đúng với giá trị vĩnh hằng của cuộcđời người Anh hùng dân tộc vĩ đại và Nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh. Thôngđiệp của Hồ Chí Minh cho sự phát triển dân tộc ta trong tương lai vẫn là nhưvậy, không có gì khác. Vấn đề là ở chỗ, cần thấu hiểu và vận dụng thật đúng sựbiện chứng phát triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Sự sáng tạo, đó cũng là điều Hồ Chí Minh mong khi Người nhấn rất mạnh tớiviệc đưa lý luận soi đường cho thực tiễn và thực tiễn bổ sung cho lý luận, gắnlý luận với thực tiễn, luôn luôn đổi mới để phát triển cho phù hợp với hoàn cảnhtừng lúc, từng nơi.
Sự phát triển không đồng nghĩa với bảo thủ, giáo điều, cứngnhắc, trì trệ. Sự phát triển phải luôn luôn dựa trên phương châm mà Hồ Chí Minhđã nêu: “Dĩ bất biến ứng vạn biến”. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng tronggiai đoạn hiện nay khi các trào lưu xã hội chủ nghĩa trên thế giới đang nở rộmột cách phong phú, khi các cách thức, biện pháp, con đường phát triển theo địnhhướng xã hội chủ nghĩa mácxít, không mácxít trên thế giới diễn ra trăm nẻo ngả,muôn dạng; khi các thế lực thù địch với sự nghiệp cách mạng nước ta đang ra sứcchống phá quyết liệt, tinh vi.
Không ở đâu như trên lĩnh vực cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một xã hộimới - xã hội xã hội chủ nghĩa, lại đòi hỏi sự sáng tạo cực kỳ lớn lao của toànĐảng, toàn dân Việt Nam đến như vậy. Đâu đó trên thế giới vẫn còn dư âm khônghay của sự sụp đổ mô hình xã hội chủ nghĩa Xôviết. Loài người tất yếu sẽ tiếnđến chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đó là sự đúng đắn của lý luận chủnghĩa cộng sản khoa học. Lịch sử Việt Nam đã chối bỏ một cách không ngẫu nhiêncác con đường phát triển trước con đường mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm ra. Nhưng, đểtiếp nối con đường của Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh một cách thành công thì cả mộtquá trình sáng tạo ở phía trước, mà những điểm sau đây nên chú ý:
(i) Không bao giờ được sao nhãng mục tiêu. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc, vấnđề đại sự. Mọi cái khác đều có thể là phương tiện, nhưng những cái gọi là phươngtiện ấy đều có tính hướng đích, hướng mục tiêu.
(ii) Những nhiệm vụ đặt ra phải phù hợp với từng hoàn cảnh, từng thời kỳ; thờicuộc mới thì phải có chính sách mới cho phù hợp, nghĩa là phải luôn luôn đổimới, đổi mới không ngừng; đổi mới là động lực và là điều kiện không thể thiếucủa sự phát triển.
(iii) Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền phải luôn luôn chú ý nâng cao tầm trítuệ, nắm bắt những vấn đề nảy sinh từ sự vận động biện chứng và phát triển trêncơ sở học thuyết Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với sự nắm bắt nhữngtri thức mới của thế giới trong từng thời kỳ, tổng kết thực tiễn một cách nhanhnhạy, đúng đắn; không chủ quan, duy ý chí, nôn nóng.
(iv) Muốn sáng tạo, phải tạo ra một cái nền dân chủ, dân chủ đích thực để tìm rachân lý; coi đồng thuận xã hội không có nghĩa là sự thuần khiết về tư duy khuônsáo, công thức, giáo điều, biến những vấn đề lý luận của C.Marx, Ph.Engels,V.I.Lenin, Hồ Chí Minh và các nhà tư tưởng khác thành kinh thánh, cứng nhắc từngcâu từng chữ. Nếu biến những vấn đề lý luận đó thành công thức, kinh thánh thìvừa không đúng với sự mong muốn của các vị ấy, vừa biến những vấn đề lý luận ấythành những vấn đề không có sức sống trong khi đó cuộc sống không ngừng vậnđộng, biến đổi.
Chẳng thế mà Hồ Chí Minh là một người rất tôn trọng sự khác biệtcủa từng con người trong cuộc sống đó sao. Sáng tạo có khi có sự cựa quậy, vàthậm chí có khi thất bại, miễn là sau mỗi thất bại thì phải biết sửa chữa, điềuchỉnh bởi vì như ở điểm (i) đã viết là phải luôn luôn không được phép sao nhãngmục tiêu; điều này khác với với cái tâm và sự hành động của những người ác ý,những người không có thiện cảm với chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa đối vớiViệt Nam.
(v) Sự sáng tạo đòi hỏi phải đi liền với bản lĩnh chính trị vững vàng. Ở đây,bản lĩnh chính trị đó trước hết là ở cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị,trước hết là ở Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Có thể coi đội ngũ cán bộ chủchốt của Đảng là đội ngũ tinh hoa trong việc thúc đẩy sự phát triển của dân tộcViệt Nam trên con đường xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đặc biệt chú trọng xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh,trong đó vấn đề then chốt là xây dựng và chỉnh đốn Đảng Cộng sản Việt Nam. Điềunày hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Hồ Chí Minh coi Đảng như người cầm láicho con tàu đi, coi việc “trước hết”, việc thường xuyên là chỉnh đốn Đảng, làđiều trăn trở khôn nguôi của Người. Cần đề phòng và chống sự sai lầm về đườnglối và thoái hóa, biến chất Đảng. Điều này là nguy cơ trong giai đoạn hiện nayvới sự mở cửa, kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế.
Điều đặc biệt quan trọng nhất hiện nay để bảo đảm cho con đường của Hồ Chí Minhđược tiếp nối một cách đúng đắn trên phương diện xây dựng Đảng là ở hai vấn đềtrọng yếu: (i) Chống đặc quyền, đặc lợi ở trong Đảng và (ii) Xây dựng đội ngũcán bộ, đảng viên thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền từ năm 1945 trở đi và từ năm 1988 làchính đảng duy nhất trong xã hội Việt Nam. Vai trò cầm quyền, lãnh đạo hệ thốngchính trị và toàn xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam không tự nhiên mà có vàkhông phải cứ tự nhận mà được. Sở dĩ có được vai trò đó là do quá trình phấn đấukhông mệt mỏi, vượt qua bao thử thách nghiệt ngã trong các thời kỳ cách mạng củaĐảng và Đảng đã được nhân dân tin yêu trao trọng trách lãnh đạo.
Đảng Cộng sảnViệt Nam đã biến cái có thể thành hiện thực. Nhưng, Đảng Cộng sản Việt Nam cũngcó thể biến hiện thực hiện nay thành con số không, nghĩa là không được nhân dântin yêu nữa, bị mất vai trò cầm quyền, vai trò lãnh đạo nếu Đảng không trongsạch, vững mạnh nữa, nếu Đảng cứ tự “ban phát” đặc quyền, đặc lợi làm cho dân xarời, làm cho dân oán ghét, mà nhiều người gọi đó là quá trình “Đảng tự diễnbiến.”
Do Đảng cầm quyền và là Đảng duy nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay, cho nênbên cạnh Đảng có nhiều lợi thế để lãnh đạo đất nước phát triển thì cũng tiềm ẩnnhiều nguy cơ làm mất dân chủ trong xã hội, nguy cơ làm cho Đảng dễ xa dân vàđặc biệt là dễ lâm vào tình trạng đặc quyền đặc lợi; cán bộ, đảng viên thamnhũng.
Đảng cầm quyền nhưng Đảng phải thực sự hoạt động trong khuôn khổ Hiếnpháp và pháp luật - điều này đã được ghi vào trong Điều lệ Đảng và trong Cươnglĩnh của Đảng, nhưng cần được thực hiện một cách thật sự nghiêm túc trong thựctế. Cần đề phòng và khắc phục việc Đảng đưa ra những quyết sách không phù hợpvới luật pháp, tự cho mình hưởng đặc quyền, đặc lợi về vật chất, quên mất Đảngphục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc.
Đảng phải là tổ chức “chânchính cách mạng” [2] , “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nóphải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bàosung sướng” [3] , Đảng phải làm “công bộc”, làm “đày tớ”, làm “trâu ngựa” chonhân dân (Những chữ Hồ Chí Minh dùng) chứ không phải Đảng đưa ra những quy địnhđể cho những cán bộ chủ chốt hưởng lợi về vật chất trong khi đời sống của nhândân nói chung và của đại đa số cán bộ, đảng viên vẫn còn nhiều khó khăn. Nhữngđặc quyền, đặc lợi, làm không đúng với Hiến pháp và pháp luật chắc chắn khôngtránh khỏi con mắt tinh tường khắp nơi của nhân dân, nhân dân sẽ cảm nhận đượcmột cách trực tiếp Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng như thế nào, dẫn đến kết quảlà dân sẽ xa Đảng, và đến lúc đó chế độ chính trị sẽ sụp đổ, mọi thành quả củacách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã khổ công giành được qua bao nhiêu thời kỳcam go sẽ nhanh chóng bị đổ xuống sông xuống biển. Nguy cơ Đảng thoái hóa dẫnđến mất chế độ chính trị đã được Đại hội toàn quốc lần thứ X và XI cảnh báo.
Sự nghiệp cách mạng thành hay bại phụ thuộc vào yếu tố đội ngũ cán bộ, đảng viênvì nhân sự nào thì quan điểm ấy, nhân sự nào thì đường lối ấy, nhân sự nào thìphong trào ấy… Mỗi một cán bộ, đảng viên phải luôn luôn học tập một cách thực sựtư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, có hành động thiết thực học tập có kết quả tưtưởng và gương Hồ Chí Minh, như thế thì mới tiếp nối được con đường của Người đãkhổ công tìm thấy và dẫn dắt dân tộc Việt Nam phát triển bao nhiêu năm nay.
HồChí Minh là người có đức dày, có tâm lành, có trí sáng, có tầm cao, có tài kinhbang tế thế, có ý chí lớn lao dời non lấp bể. Hồ Chí Minh là người mang đầy khátvọng lớn lao. Khát vọng của Người không phải là nhằm lo lấy cái đích là làm chobản thân giàu có về vật chất, được ăn ngon, mặc đẹp, có nhà to cửa rộng, nhà lầuxe hơi, có quyền cao chức trọng...
Khát vọng của Hồ Chí Minh, như Người nóimột cách nôm na, đó là sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta đượchoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áomặc, ai cũng được học hành.
Trong Tài liệu Tuyệt đối bí mật (Di chúc), Hồ ChíMinh còn nêu “điều mong muốn cuối cùng” là “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấnđấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàumạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [4] . Học Hồ ChíMinh là học sự thoát khỏi mọi cám dỗ cá nhân, đúng như Hồ Chí Minh lấy lời MạnhTử khuyên cán bộ, đảng viên là “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uyvũ bất năng khuất”. Hồ Chí Minh dùng quyền lực của nhân dân uỷ thác cho mình vớicái chức trách là Chủ tịch Chính phủ rồi Chủ tịch nước để mưu việc lớn cho dân,cho nước, cho người lao động trên toàn thế giới.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh viếtđoạn bổ sung năm 1968: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụcách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điềugì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng, không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiềuhơn nữa” [5] . Đó là sự tiếc nuối của bậc đại nhân, đại trí, đại dũng, sự tiếcnuối của một Anh hùng dân tộc vĩ đại và đồng thời là Nhà văn hóa kiệt xuất.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh vất vả, đầy lo toan cho sự nghiệp lớn lao. Hồ Chí Minhra nước ngoài tìm con đường cứu nước mà trong túi không có một xu, phải đem sứcvóc thư sinh nai lưng làm những công việc nặng nhọc kiếm tiền để sống và hoạtđộng. Hồ Chí Minh hai lần bị cầm tù, bị một án tử hình vắng mặt; chịu nhiều cảnhthiếu thốn, có lần trong tù “Gầy đen như quỷ đói/Ghẻ lở mọc đầy thân”, răng rụngmất mấy chiếc, mắt mờ, bị lao phổi. Hồ Chí Minh là người có đầy nghị lực đểchiến thắng bệnh tật và tai ương. Mỗi cán bộ, đảng viên chỉ cần làm được mộtcách có hiệu quả một phần nhỏ theo gương đạo đức Hồ Chí Minh thôi thì sự nghiệpcách mạng Việt Nam trong giai đoạn tới chắc chắn sẽ phát triển mạnh. Nhưng rấttiếc, tình hình hiện nay chưa được như vậy.
Sự tiếp nối sự nghiệp Hồ Chí Minhvới bản lĩnh Hồ Chí Minh để vượt qua mọi thử thách vẫn còn lắm gian nan nhưngchắc chắn Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam sẽ giành thắng lợi nếu kiên trì đitheo con đường mà Hồ Chí Minh đã vạch ra, nếu Đảng trong sạch, vững mạnh, có tầmcao trí tuệ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, nếu toàn dân tộc đoàn kết thànhmột khối vững chắc, biết vượt qua thử thách, nguy cơ, biết tận dụng thời cơ đểphát triển nhanh và bền vững.
[1] Trong Điếu văn của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tại Lễtruy điệu Hồ Chí Minh ngày 9/9/1969 có đoạn: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sôngđất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đấtnước ta.”
Tháng 12/1976, trong Báo cáo chính trị của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứIV của Đảng, có đoạn: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũngnhư những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãigắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảngta, người khai sinh nền Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoànkết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài củagiai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế."
Như vậy, lầnđầu tiên, qua văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng và ở tầm cao nhất, qua văn kiện của Đạihội toàn quốc, Đảng đã chính thức ghi nhận Hồ Chí Minh là “người anh hùng dântộc vĩ đại.” “Danh hiệu” có từ sớm, còn đến năm 1987, UNESCO mới ghi nhận HồChí Minh là “ Anh hùng giải phóng dân tộc và là Nhà văn hóa kiệt xuất ViệtNam.”/.