Cụ thể, sông Cửu Long phụ thuộc đến 95% tổng lượng nước từ nguồn nướcquốc tế, còn sông Hồng-Thái Bình phụ thuộc đến 40%. Vì vậy, tình trạng suy kiệttrong hệ thống sông, hồ chứa nước của nước ta diễn biến rất phức tạp.
Đặc biệt,hầu hết các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên lượng nước khai thác chiếm trên 50%lưu lượng của dòng chảy trên địa bàn. Riêng tỉnh Ninh Thuận lên đến 70-80%,trong khi giới hạn nơi đây được phép khai thác chỉ là 30%.
Do đó trong bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng, mà Việt Nam là một trongnhững quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, với thực trạng tài nguyên nước đượcphân bổ không đồng đều giữa các vùng, miền; giữa các mùa trong năm, nên nguy cơthiếu nước vào mùa khô, lũ lụt vào mùa mưa đang ngày càng hiện hữu trong nhiềuvùng, miền của nước ta. Trong khi chất lượng nước mặt lục địa đang suy giảm, cónơi bị ô nhiễm nặng.
Các hồ, ao, kênh, mương trong các thành phố đều bị ô nhiễm nghiêm trọng,vượt quá mức quy chuẩn cho phép. Nhiều nơi đã biến thành nơi chứa chất thải. Cácđoạn sông chảy qua khu đô thị, khu vực sản xuất công nghiệp, khai khoáng đã bị ônhiễm, nhiều chất ô nhiễm trong nước có độ vượt quá quy chuẩn cho phép từ 1,5đến 3 lần.
Ngay cả nước biển ven bờ cũng có dấu hiệu bắt đầu bị ô nhiễm. Chẳng hạnnhư dải ven biển miền Nam kể từ Nha Trang trở vào đã có dấu hiệu ô nhiễm COD.Các vùng biển từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa-Nghệ An, hàm lượng amoni (N-NH4) đãvượt hoặc xấp xỉ quy chuẩn cho phép. Một số vùng biển ven bờ đã có dấu hiệu bị ônhiễm dầu và xyanua. Đối với nước biển ở ngoài khơi, hàm lượng oxy hòa tan vàhàm lượng dầu mặc dù thấp hơn ở ven bờ, song cũng đều vượt tiêu chuẩn ASEAN chovùng nước bảo tồn thủy sinh.
Chưa kể phần lớn nước dưới đất của nước ta đều có chất lượng tốt, nhưngcũng bị cạn kiệt do khai thác thiếu bền vững và bị ô nhiễm cục bộ ở một số nơi,như ô nhiễm vi sinh tại Thành phố Hồ Chí Minh; ô nhiễm phốtphát tại Hà Nội; ônhiễm asen, amoni ở Đồng bằng Bắc Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long./.