Quốc hội thông qua các luật và nghị quyết về tiền tệ

Hai dự án Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi), Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua chiều 16/6.
Hai dự án Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi), Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) và Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2008 đã được Quốc hội thông qua chiều 16/6, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII.

Thông qua Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước 2008


Với đa số đại biểu tán thành, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2008. Tổng số thu cân đối ngân sách Nhà nước là 548.529 tỷ đồng, bao gồm cả số thu chuyển nguồn từ năm 2007 sang, thu từ quỹ dự trữ tài chính, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương theo quy định và thu kết dư ngân sách địa phương năm 2007.

Tổng số chi cân đối ngân sách Nhà nước là 590.714 tỷ đồng, bao gồm cả số chi chuyển nguồn từ năm 2008 sang năm 2009. Bội chi ngân sách là 67.677 tỷ đồng, bằng 4,58% GDP, không bao gồm số kết dư của ngân sách địa phương. Nguồn bù đắp bội chi ngân sách gồm vay trong nước 48.009 tỷ đồng, vay nước ngoài 19.668 tỷ đồng.

Quốc hội giao Chính phủ rà soát, sửa đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tài chính ngân sách không còn phù hợp, nhất là các quy định về tiêu chuẩn, chế độ, định mức chi ngân sách, làm căn cứ để quản lý và điều hành ngân sách đúng quy định, tiết kiệm, hiệu quả.

Chính phủ nghiên cứu, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sửa đổi kịp thời các luật, pháp lệnh, nghị quyết về tài chính-ngân sách, khắc phục những tồn tại, bất cập đang đặt ra. Trước mắt, quy định cụ thể đối tượng, điều kiện các khoản được chuyển nguồn sang năm sau, điều kiện được tạm ứng vốn đầu tư xây dựng, thời gian thu hồi vốn tạm ứng, khắc phục tình trạng tạm ứng vốn lớn, chuyển nguồn lớn, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước.

Thông qua dự án Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi)

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi) gồm 7 chương, 66 điều, đã được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII.

Luật quy định chính sách tiền tệ quốc gia là các quyết định về tiền tệ ở tầm quốc gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền bao gồm quyết định mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền biểu hiện bằng chỉ tiêu lạm phát, quyết định sử dụng các công cụ và biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra.

Quốc hội quyết định chỉ tiêu lạm phát hàng năm được thể hiện thông qua việc quyết định chỉ số giá tiêu dùng và giám sát việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

Thủ tướng Chính phủ, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quyết định việc sử dụng các công cụ và biện pháp điều hành để thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia theo quy định của Chính phủ.

Ngân hàng Nhà nước công bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cơ bản và các loại lãi suất khác để điều hành chính sách tiền tệ, chống cho vay nặng lãi. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, Ngân hàng Nhà nước quy định cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các tổ chức tín dụng với nhau và với khách hàng, các quan hệ tín dụng khác.

Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sửa đổi) có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011.

Thông qua Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi)

Luật các tổ chức tín dụng (sửa đổi) gồm 10 chương, 163 điều cũng đã được Quốc hội thông qua trong ngày làm việc hôm nay với đa số đại biểu tán thành.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 và Luật số 20/2004/QH11. Theo luật, một cổ đông là cá nhân không được sở hữu vượt quá 5% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Một cổ đông là tổ chức không được sở hữu vượt quá 15% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng, trừ trường hợp sở hữu cổ phần nhà nước tại tổ chức tín dụng cổ phần hóa, sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài và sở hữu cổ phần theo quy định của Luật để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, đảm bảo an toàn hệ thống.

Luật cũng quy định cổ đông và những người có liên quan của cổ đông đó không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng.

Trong thời hạn 5 năm kể từ ngày được cấp phép, các cổ đông sáng lập phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; các cổ đông sáng lập là pháp nhân phải nắm giữ số cổ phần tối thiểu bằng 50% tổng số cổ phần do các cổ đông sáng lập nắm giữ.

Tổ chức tín dụng không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà tổ chức tín dụng nắm quyền kiểm soát; không được cho vay để góp vốn vào một tổ chức tín dụng khác trên cơ sở nhận tài sản đảm bảo bằng cổ phiếu của chính tổ chức tín dụng nhận góp vốn.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011./.

Chu Thanh Vân (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục