Sức mạnh pháo binh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân 1975

Thiếu tướng Nguyễn Văn Côn, Tư lệnh Binh chủng Pháo binh có bài viết “Sức mạnh của pháo binh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân 1975".
Sức mạnh pháo binh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân 1975 ảnh 1(Ảnh tư liệu TTXVN)

Nhân kỷ niệm 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của Thiếu tướng Nguyễn Văn Côn, Tư lệnh Binh chủng Pháo binh với nhan đề: “Sức mạnh của pháo binh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân 1975”.

Đại thắng mùa Xuân 1975, biểu hiện sức mạnh của ý chí thống nhất Tổ quốc và khát vọng hòa bình của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là thắng lợi vĩ đại của bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam trong thế kỷ 20; đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo với chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự tài tình của Đảng; biểu hiện sức mạnh vô song của các lực lượng, quân, binh chủng tham gia chiến dịch, trong đó có sức mạnh lực lượng pháo binh.

Sức mạnh chiến đấu pháo binh là tổng thể các nhân tố tinh thần và vật chất quyết định đến trạng thái, khả năng thực hiện nhiệm vụ chiến đấu (tác chiến) của các đơn vị pháo binh; bộ phận của sức mạnh quân sự.

Sức mạnh chiến đấu pháo binh được xác định bởi các yếu tố: chất lượng chính trị, trạng thái tinh thần; trình độ huấn luyện, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của bộ đội pháo binh; số lượng, chất lượng vũ khí, phương tiện kỹ thuật pháo binh và các trang bị khí tài khác; trình độ khoa học kỹ thuật và nghệ thuật quân sự; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chỉ huy pháo binh. Sức mạnh của lực lượng pháo binh thể hiện qua các đòn hỏa lực.

Pháo binh dùng hỏa lực để sát thương, tiêu diệt sinh lực địch, phá hủy các phương tiện chiến tranh của địch, vừa chi viện cho các lực lượng chiến đấu, vừa trực tiếp chiến đấu.

Trong tác chiến, hỏa lực luôn luôn là một trong những yếu tố cơ bản để giành thắng lợi. Sức mạnh hỏa lực trong một trận đánh, một chiến dịch là tổng hợp hỏa lực của tất cả các loại vũ khí trang bị của các thành phần, lực lượng tham gia chiến đấu; trong đó hỏa lực của pháo binh được xác định là hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội và hỏa lực chủ yếu của lục quân.

Sức mạnh của pháo binh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân 1975 thể hiện rõ nét qua từng chiến dịch, trận đánh cụ thể. Trong đó, thể hiện tập trung, rõ nét nhất là các chiến dịch chiến lược Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Trị-Thiên-Huế, Chiến dịch Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh; chiến dịch trước tạo điều kiện cho chiến dịch sau, chiến dịch sau phát huy thắng lợi của chiến dịch trước, giành thắng lợi dồn dập ngày càng lớn đi đến thắng lợi cuối cùng.

Chiến dịch tiến công Tây Nguyên tháng 3/1975, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân Việt Nam; chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược sâu sắc, tạo thời cơ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Thắng lợi của chiến dịch là thắng lợi tạo sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, trong đó có pháo binh.

Trận then chốt mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên là trận tiến công vào thị xã Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã huy động tới 5 trung đoàn cùng với 2 tiểu đoàn pháo binh gồm 87 khẩu pháo xe kéo, 213 khẩu pháo mang vác các loại tham gia trận đánh, so sánh với địch, pháo binh xe kéo của ta gấp 1,5 lần pháo binh xe kéo địch.

Với ưu thế vượt trội về lực lượng, lại được chuẩn bị chu đáo về thế trận và cách đánh, khi đánh vào thị xã Buôn Ma Thuột đợt 2 chiến dịch với hỏa lực chuẩn bị của pháo binh bắn gần 5.000 viên đạn pháo cỡ lớn kéo dài 120 phút dồn dập, mãnh liệt vào các mục tiêu như Sở Chỉ huy Sư đoàn 23, Sở Chỉ huy tiểu khu Đắk Lắk, căn cứ liên hiệp quân sự và bảy trận địa pháo binh địch.

Bắn trúng mục tiêu ngay từ loạt đạn đầu, diệt nhiều địch, gây cháy nổ làm tê liệt hoàn toàn các trận địa pháo binh địch, tạo ra đòn hỏa lực áp đảo chi viện kịp thời cho bộ binh, xe tăng đánh chiếm các tiểu khu, khu hành chính, khu thiết giáp trong thị xã, nhanh chóng làm chủ Buôn Ma Thuột.

Sau khi giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, ta đã kịp thời cơ động pháo binh sang phía đông để chi viện đánh địch ứng cứu giải toả, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã huy động tới 54 khẩu pháo xe kéo cho trận then chốt thứ 2 ở Phước An, đập tan cuộc phản kích của địch, xoá sổ Sư đoàn 23 quân đội Sài Gòn, giải phóng hầu hết tỉnh Đắk Lắk, làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên; buộc địch phải rút chạy khỏi Tây Nguyên.

Để kịp thời chi viện cho các lực lượng cơ động chiến dịch tiến công tiêu diệt địch rút chạy theo đường 7 qua Cheo Reo về đồng bằng. Các lực lượng pháo binh ta rót đạn vào các mục tiêu trong thị xã Cheo Reo chặn đứng cuộc rút lui của địch, làm cho địch hoang mang rối loạn, hỏa lực của các lực lượng pháo binh cùng với hỏa lực khác đã tiêu diệt các ổ đề kháng địch, chi viện đắc lực và hiệu quả cho bộ binh liên tiếp đánh chiếm những trại lính, ty cảnh sát, tiểu khu quân sự một cách thuận lợi; làm chủ Cheo Reo, giải phóng hoàn toàn các tỉnh Tây Nguyên.

Đòn điểm trúng huyệt ở Buôn Ma Thuột và giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên làm cho địch hoang mang cao độ; buộc địch phải vội vàng rút chạy khỏi Quảng Trị để tập trung quân, cố thủ phòng tuyến Huế-Đà Nẵng. Thế và thời cơ đã đến, ta quyết định mở chiến dịch giải phóng Huế, Đà Nẵng. Chiến dịch Trị-Thiên-Huế, Chiến dịch Đà Nẵng phát triển từ hai chiến dịch tiến công Xuân-Hè của Quân khu Trị-Thiên, Quân đoàn 2 và Quân khu 5, kết thúc nhanh chóng, thắng lợi oanh liệt.

Trong hai Chiến dịch Trị-Thiên-Huế, Đà Nẵng, các lực lượng pháo binh có bước tiến rất nhanh về trình độ tổ chức chỉ huy tác chiến hiệp đồng quy mô lớn, đặc biệt là tổ chức chỉ huy bắn chi viện cho bộ binh, xe tăng tiến công địch trong hành tiến, góp phần thúc đẩy quá trình hoang mang, tan rã của địch, ngăn chặn không cho chúng co cụm và rút chạy; cùng những đơn vị khác đánh chiếm các thị xã, thành phố lớn.

Đó là thành công về nghệ thuật tác chiến pháo binh trong chiến dịch trên từng hướng tiến công, trong mỗi trận đánh, số đạn tiêu thụ không nhiều, nhưng hiệu quả chiến đấu cao và phát huy được sức mạnh hỏa lực pháo binh trong việc hoàn thành các nhiệm vụ của chiến dịch.

Trong chiến dịch này lực lượng pháo binh tham gia với bốn trung đoàn pháo xe kéo và 284 khẩu pháo mang vác trong biên chế của các trung (tiểu) đoàn thuộc Quân đoàn 2, Quân khu V, kết hợp với pháo binh Quân khu Trị-Thiên để tạo sức mạnh hỏa lực pháo binh trên các hướng.

Sử dụng hai đại đội pháo 130 của Lữ pháo binh 164, Quân đoàn 2 bố trí ở Mũi Trâu đánh phá có hiệu quả vào sân bay, kho tàng, sở chỉ huy, bến cảng địch. Đến ngày 25/3/1975, ta làm chủ Huế và Đà Nẵng sau đó 4 ngày (29/3) giải phóng hoàn toàn miền Trung Trung Bộ, phá vỡ âm mưu co cụm chiến lược của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho đòn chiến lược cuối cùng.

Để chi viện cho chiến dịch đánh địch rút chạy ở khu liên hợp quân sự Đà Nẵng, Bộ Tư lệnh chiến dịch đã sử dụng pháo 130mm, pháo Đ74 bắn phá sân bay và bến cảng Đà Nẵng. Sân bay Đà Nẵng trúng đạn, kho bom nổ, đường băng hỏng; sân bay hoàn toàn bị tê liệt ngừng hoạt động. Chỉ huy và giặc lái của địch, số bị chết, số bị thương, lực lượng còn lại nhốn nháo, hoảng loạn; ngay sau đó ta tập trung bắn vào cảng Đà Nẵng và bãi biển Mỹ Khê.

Một số tàu đổ bộ của địch bị trúng đạn pháo bốc cháy, tạo điều kiện cho các cánh quân của ta đột nhập vào thành phố. Đến 15 giờ cùng ngày quân ta đã làm chủ hoàn toàn thành phố Đà Nẵng. Trong chiến dịch này, pháo binh đã tiêu diệt và làm bị thương 2.237 tên địch; phá hủy 117 khẩu pháo, cối; 141 xe các loại bao gồm xe tăng, xe bọc thép và xe hơi; 30 kho tàng. Thu hồi 316 khẩu pháo địch, 19.075 viên đạn pháo, 100 xe hơi và nhiều phương tiện chiến tranh khác.

Ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị họp đánh giá thắng lợi sau một tháng chiến đấu, quyết định đẩy mạnh cuộc Tổng tiến công và nổi dậy giải phóng Sài Gòn và hoàn toàn miền Nam trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là trong tháng 4/1975, không thể chậm.

Theo lệnh điều động của Bộ, các trung, lữ đoàn pháo binh chủ lực thuộc lực lượng dự bị chiến lược của Bộ và pháo binh Quân đoàn 1, 2, 3 "thần tốc" tiến về Sài Gòn-Gia Định. Sau khi mất Tây Nguyên và Trung Bộ, lực lượng còn lại của địch đều dồn về đây.

Tính đến ngày 20/4/1975, lực lượng pháo binh địch ở xung quanh Sài Gòn có 125 khu vực trận địa, 512 khẩu pháo. Hướng bắc Sài Gòn địch bố trí 20 trận địa (88 khẩu), hướng tây bắc có 18 trận địa (92 khẩu), hướng đông và đông nam có 51 trận địa (168 khẩu), hướng tây và tây nam có 29 trận địa (115 khẩu), vùng ven thành phố có 7 trận địa (49 khẩu).

Lực lượng pháo binh có 55 tiểu đoàn pháo binh với 20 trung (lữ) đoàn và 8 tiểu đoàn pháo độc lập; tổ chức thành 30 cụm pháo binh gồm: 3 cụm pháo binh chiến dịch, 6 cụm pháo binh quân đoàn, 12 cụm pháo binh sư đoàn, 9 cụm pháo binh trung đoàn, cùng với pháo binh của các lực lượng hải quân, bộ đội địa phương, dân quân du kích... được bố trí liên hoàn chặt chẽ trên cả năm hướng tiến công.

Pháo binh của Bộ cùng với lực lượng pháo binh của ba thứ quân tạo ra hỏa lực pháo binh mạnh mẽ chi viện hiệu quả cho binh chủng hợp thành tập trung vào các mục tiêu, sân bay địch (Tân Sơn Nhất, Biên Hoà), khu Nước Trong, Trảng Bom, Bến Lức, Phước Mỹ, Trảng Bàng... tạo điều kiện cho các cánh quân nhanh chóng làm chủ thế trận, tiến công địch.

Các lực lượng pháo binh không những giỏi trong đánh hiệp đồng quân binh chủng, mà còn phát huy tốt sức mạnh hỏa lực trong đánh độc lập. Trong chiến dịch này, các lực lượng pháo binh đã diệt và làm bị thương 1.565 tên, bắt sống 7.650 tên, phá hủy 7 máy bay, 218 khẩu pháo các loại, 67 xe, bắn cháy, bắn chìm 21 tàu xuồng, cháy nổ 60 kho.

Ngày 14/4, đoàn pháo binh Biên Hòa đã sử dụng pháo 130mm cơ động thần tốc cùng với binh chủng hợp thành để tham gia chiến dịch. Đúng 17 giờ cùng ngày, pháo binh ta bất ngờ bắn loạt đầu tiên vào sân bay Biên Hoà và ngay loạt đạn đầu đã trúng mục tiêu, quân địch rối loạn, hoảng loạn.

Địch đã sử dụng máy bay ném bom và phản pháo vào đội hình chiến đấu của ta, nhưng bộ đội pháo binh vẫn kiên trì bám trận địa đánh liên tục cả ngày lẫn đêm, vận dụng phương pháp bắn, phù hợp, linh hoạt có lúc chỉ sử dụng đơn pháo; có khi sử dụng đến trung đội, đại đội để bắn máy bay địch chuẩn bị xuất kích.

Kết quả là sau 12 ngày đêm chiến đấu ròng rã trong điều kiện ác liệt với 326 viên đạn, pháo binh Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khóa chặt sân bay chiến lược Biên Hoà, bắn hỏng, bắn cháy một số máy bay địch, đặc biệt bắn trúng kho bom gây cháy nổ tạo nên những đám cháy lớn và những tiếng nổ dữ dội, làm tê liệt toàn bộ sân bay Biên Hòa trong suốt nhiều giờ liền, không cho máy bay địch cất cánh chi viện cho Xuân Lộc; phần lớn lực lượng địch bị tiêu diệt, số còn lại hoảng loạn lên máy bay tháo chạy về Tân Sơn Nhất.

Trận đánh sân bay Tân Sơn Nhất trong Chiến dịch Hồ Chí Minh chiều ngày 27/4, ta đã sử dụng pháo ĐKB bắn phá dữ dội vào sân bay. Đến rạng sáng ngày 29/4, ta lại dùng pháo 130mm thuộc Lữ đoàn 164 bắn cấp tập vào sân bay, có lúc bắn gấp, có lúc bắn giám thị cả ngày và đêm 29 với khoảng 120 viên đạn, làm cho sân bay Tân Sơn Nhất bị tê liệt hoàn toàn.

Tiếng pháo nổ ở sân bay Tân Sơn Nhất đã làm rung chuyển cả đường phố Sài Gòn và gây rối loạn ở Bộ Tổng tham mưu Việt Nam Cộng hòa... tạo điều kiện cho các binh đoàn thọc sâu nâng cao tốc độ tiến công nhanh chóng đánh chiếm các mục tiêu đã được xác định trong nội đô.

Trong Chiến dịch Xuân Lộc, ngoài lực lượng pháo binh của Miền chi viện, còn tăng cường một trung đoàn với 12 khẩu pháo lựu 122mm và 4 khẩu pháo nòng dài 130mm, kết hợp với pháo binh của quân đoàn, pháo binh của lực lượng vũ trang địa phương đứng chân trên địa bàn.

Đúng 5 giờ 40 ngày 9/4, cụm pháo binh chiến dịch và cụm pháo binh Quân đoàn 4 bất ngờ đồng loạt phát hỏa bắn dồn dập, mãnh liệt vào các mục tiêu bên trong và ngoài thị xã mở màn chiến dịch. Ngay loạt đạn đầu đã bắn trúng và phá tan cụm ăngten của địch ở khu trung tâm thị xã. Lực lượng pháo bắn thẳng đã bẻ gãy cột ăngten trên núi Thị, cắt đứt toàn bộ hệ thống chỉ huy liên lạc của địch, làm tê liệt hệ thống chỉ huy của địch ở Xuân Lộc.

Tiểu đoàn 19 pháo lựu 122 đã sử dụng 8 khẩu bắn chính xác vào căn cứ địch, không có viên đạn nào rơi ngoài hàng rào. 4 khẩu cối 120 ly của Tiểu đoàn 22 đã bắn vào điểm tựa và trận địa pháo địch cũng rất chính xác. Sau 1 giờ hỏa lực bắn chuẩn bị chính xác, mãnh liệt của pháo binh vào các mục tiêu của địch trong căn cứ Xuân Lộc, chỉ huy của địch bị rối loạn và tê liệt.

Tính đến ngày 18/4, pháo binh đã tập kích tiêu diệt toàn bộ Chiến đoàn 52 ngụy ở ngã ba Dầu Giây; đẩy lùi được cuộc phản kích của Lữ đoàn thiết giáp 3, Chiến đoàn 8 ngụy tại Hưng Nghĩa và điểm cao 122. Ngày 18/4, lực lượng pháo binh làm chủ được Xuân Lộc. Sau 13 ngày đêm chiến đấu, đến ngày 21/4, thị xã Xuân Lộc và toàn tỉnh Long Khánh đã hoàn toàn được giải phóng.

Kết quả, pháo binh Việt Nam đánh thiệt hại 3 chiến đoàn bộ binh, 2 chi đoàn xe tăng, một số đơn vị pháo binh... thu 16 pháo lựu 105 ly và 155 ly; 100.000 viên đạn các loại, phá hủy 16 ôtô, 42 xe tăng xe bọc thép.

"Cánh cửa thép" Xuân Lộc ở cửa ngõ Sài Gòn bị phá toang đã làm rung chuyển toàn bộ hệ thống phòng thủ còn lại của địch ở xung quanh Sài Gòn, khiến tinh thần chiến đấu của quân ngụy bị suy sụp, tạo ra thế và thời cơ mới cho hướng tiến công vào Sài Gòn.

Trận đánh vào trung tâm sở chỉ huy của cơ quan Bộ Tổng tham mưu chế độ Sài Gòn ngày 30/4 của Lữ đoàn 45 pháo binh thuộc Quân đoàn 1 đã chứng minh sức mạnh to lớn của hỏa lực pháo binh. Đúng 10 giờ ngày 30/4/1975, toàn bộ đại đội pháo 130mm thuộc Lữ đoàn 45 (Quân đoàn 1) đã tiến hành bắn cấp tập vào trung tâm Sở Chỉ huy của cơ quan Bộ Tổng tham mưu chế độ Sài Gòn.

Chỉ với 43 phát đạn pháo Sở Chỉ huy của cơ quan Bộ Tổng tham mưu địch đã hoàn toàn bị chế áp, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh, xe tăng ta thừa thắng xung phong đánh chiếm các mục tiêu trọng yếu bên trong. 11 giờ 30 phút ngày 30/4, lá cờ bách chiến, bách thắng của Việt Nam tung bay trên nóc Dinh Độc Lập, đánh dấu sự toàn thắng của quân và dân.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đánh dấu bước phát triển cao nhất của pháo binh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Trong các chiến dịch của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp đã khéo léo vận dụng, kết hợp những nguyên tắc sử dụng lực lượng và tác chiến của pháo binh; đã kết hợp tốt ba yếu tố: thời cơ, thế trận, lực lượng, tạo nên sức mạnh tổng hợp, làm tốt công tác chuẩn bị, thiết bị chiến trường và tích cực lấy pháo, đạn địch trang bị cho mình để giành ưu thế sức mạnh hỏa lực.

Đánh đúng thời cơ là thành công nổi bật của pháo binh trong các chiến dịch quy mô lớn, vừa xen kẽ vừa kế tiếp nhau trong suốt quá trình cuộc Tổng tiến công và nổi dậy. Đánh đúng thời cơ, chỉ với lực lượng nhỏ pháo binh đã tạo nên sức mạnh lớn, hiệu quả cao.

Nhờ đánh đúng thời cơ, hai khẩu pháo 130mm của Trung đoàn 16 đã ngăn chặn được hàng vạn quân địch ở cảng Tân Mỹ và Thuận An (Huế). 7 khẩu pháo của Lữ đoàn 164 làm tê liệt sân bay góp phần chặn đứng cuộc rút chạy và làm tan rã hàng chục vạn tên địch ở Đà Nẵng. 3 khẩu pháo của Đại đội 26, Tiểu đoàn 21, Đoàn 75 đã "khóa chặt" sân bay Biên Hoà, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị cơ động lực lượng, triển khai thế trận đánh chiếm thành phố Sài Gòn.

Phát huy cao nhất khả năng cơ động và sức mạnh hỏa lực, pháo binh đã đáp ứng kịp thời các yêu cầu ngày càng lớn, khẩn trương trong những chiến dịch quy mô lớn, diễn ra trên không gian rộng, thời gian dài, đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, đồng bằng và thành phố.

Từ chi viện cho các binh đoàn diệt phá tuyến phòng thủ vững chắc của địch, đến chi viện tiến công trong hành tiến; từ tổ chức chỉ huy một vài cụm pháo chi viện một quân đoàn tiến công trên một hướng, đến tổ chức chỉ huy cùng lúc hàng chục cụm pháo binh các cấp, chi viện nhiều quân đoàn tiến công trên nhiều hướng, pháo binh đã góp phần tích cực cùng các đơn vị tiêu diệt và làm tan rã những tập đoàn lớn quân địch; hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy, giành thắng lợi trọn vẹn cho các chiến dịch.

Có thể nói, các chiến dịch trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 thể hiện sức mạnh vô song của nhiều thành phần lực lượng, quân, binh chủng tham gia chiến dịch, trong đó có sức mạnh của lực lượng pháo binh Việt Nam. Muốn đạt được sức mạnh đó đòi hỏi phải tập trung được lực lượng trong từng chiến dịch, từng trận đánh cụ thể, đặc biệt là trong các trận then chốt, then chốt quyết định.

Đồng thời sử dụng các kiểu bắn, lựa chọn những phương pháp bắn trong từng chiến dịch, trận chiến đấu cụ thể một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với thực tế, từng loại mục tiêu và địa hình nơi diễn ra chiến dịch để phát huy tối đa hỏa lực của pháo binh; vì vậy đã tạo ra hỏa lực áp đảo quân địch trong những trận đánh then chốt, thời điểm quyết định của chiến dịch.

Với cách đánh truyền thống "độc lập tập kích hỏa lực" và "hiệp đồng quân binh chủng" pháo binh ba thứ quân đã chi viện cho binh chủng hợp thành đánh địch với nhiều hình thức phong phú: từ đột phá tuyến phòng thủ vòng ngoài, đến tiến công địch trong hành tiến, thọc sâu, vu hồi, bao vây chia cắt quân địch; pháo binh ta còn "độc lập" tổ chức ra nhiều trận tập kích hỏa lực mãnh liệt mang tính nghệ thuật cao góp phần tăng nhịp độ tiến công liên tục của chiến dịch, xứng đáng với vai trò là hỏa lực chủ yếu của lục quân cũng như hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội.

Trong tương lai, nếu chiến tranh xảy ra, lực lượng pháo binh Việt Nam vẫn giữ một vị trí rất quan trọng và không thể thiếu trong các chiến dịch và trận chiến đấu. Hỏa lực pháo binh vẫn là một trong những hỏa lực mạnh mẽ nhất; là hỏa lực mặt đất chủ yếu của quân đội; là hỏa lực chủ yếu của lục quân.

Từ thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, pháo binh Việt Nam đã phát huy tốt truyền thống vẻ vang "chân đồng, vai sắt, đánh giỏi, bắn trúng" tạo đà để thực hiện tốt các nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Sức mạnh của pháo binh Việt Nam trong Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là tiền đề quan trọng để lực lượng pháo binh Việt Nam ngày nay tiếp tục phát huy trong huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu. Hiện nay, về chủng loại cơ bản vẫn như đã có, song xu thế chung phải từng bước đi sâu nghiên cứu, chế tạo, cải tiến để tăng tầm bắn và sức công phá lớn của đạn pháo, coi trọng hệ thống chỉ huy pháo binh để bắn nhanh, chính xác tạo ra uy lực mạnh mẽ.

Nhắc lại tinh thần truyền thống vẻ vang của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, những thế hệ cán bộ, chiến sĩ pháo binh hôm nay luôn tự hào về những vinh quang đó. Đó cũng là niềm cổ vũ động viên, khích lệ và tiếp thêm sức mạnh, ý chí, nghị lực cho mỗi cán bộ, chiến sĩ pháo binh hôm nay tiếp bước nhiệm vụ của thế hệ cha ông đi trước vững bước trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục