Thắng cảnh chùa Hương: Biệt chiếm nhất Nam thiên

Quần thể khu di tích thắng cảnh chùa Hương gồm 18 đền, chùa, hang động nằm ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội.
Quần thể khu di tích thắng cảnh chùa Hương bao gồm 18 đền, chùa, hang động nằm rải rác ở bốn thôn Yến Vĩ, Đục Khê, Hội Xá và Phú Yên thuộc xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc thành phố Hà Nội.

Các chùa, động ở đây phần lớn được phát hiện và xây dựng vào các thế kỷ 17 và 19. Đa số dựa vào sườn núi hoặc nằm dưới thung lũng, những nơi có địa thế đẹp.

Quần thể di tích chùa Hương được chia thành bốn khu: khu Hương Thiên gồm 8 di tích: động Hương Tích, chùa Thiên Trù, đền Trình Ngũ Nhạc, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng, chùa Tiên Sơn, chùa Ninh Bồng và động Đại Binh; khu Thanh Hương gồm chùa Thanh Sơn và động Hương Đài; khu Long Vân gồm 4 di tích: chùa Long Vân, động Long Vân, động Cây Khế và hang Thánh Hóa; khu Tuyết Sơn gồm 4 di tích: chùa Bảo Đài, động Ngọc Long, chùa Ngư Trì (chùa Cá), và đền Trình Phú Yên.

Chùa Thiên Trù được khởi dựng từ thời Lê Thánh Tông năm Đinh Hợi (1467) niên hiệu Quang Thuận thứ 8 đến niên hiệu Trần Đạo Viên Quang tái thiết. Đến năm 1942 thì toàn bộ công trình hoàn chỉnh, trở thành một lâu đài tráng lệ, được mệnh danh là “Biệt chiếm nhất Nam thiên.”

Trong kháng chiến chống Pháp, vào các năm 1947, 1948, 1950, chùa bị tàn phá. Ngày 11/2 năm Kỷ Tỵ (1989), chùa được xây dựng lại và đến ngày 11/1 năm Tân Mùi (1991) thì khánh thành. Hiện nay, với quần thể kiến trúc nguy nga, hoành tráng khiến Thiên Trù trở thành trung tâm của thắng cảnh Hương Sơn.

Chùa Giải Oan nằm trên sườn núi, phía trái đường đi Hương Tích do sư tổ Thông Dụng khai sáng vào thời Lê Thuần Tông năm Ất Mão (1735), niên hiệu Long Đức thứ tư, ở trên núi Long Tuyền. Đến năm 1928, Đại sư Thanh Tích tôn tạo lại theo thế “Ỷ bích sơn.”

Năm 1995, chùa được trùng tu. Quanh chùa có am Phật tích, động Tuyết Kình, am Từ Vân. Đặc biệt trong chùa còn có giếng thiên nhiên Thanh Trì nước trong vắt và không bao giờ cạn. Tương truyền Phật Bà Quán Âm đã tắm ở giếng này để tẩy bụi trần, nghỉ ngơi tọa thiền trước khi vào cõi Phật.

Động Hương Tích vốn có từ thời vận động tạo sơn, được phát hiện vào thế kỷ 11 và đưa vào thờ Phật năm 1687. Phật thọai huyền rằng: đức Quán Thế Âm Bồ Tát ứng thân làm công chúa Diệu Thiện, con vua Diệu Trang Vương ở nước Hưng Lâm, tu hành chín năm và thành đạo quả ở động này nên đặt tên là Hương Tích (tức là dấu vết thơm tho).

Đặc biệt, ở đây có pho tượng Phật Bà Quán Âm bằng đá xanh tạc thời Tây Sơn và hàng vạn nhũ đá nhấp nhô với biết bao hình thù kỳ lạ. Thuyết phong thủy cho rằng động Hương Tích là con rồng chúa đang há miệng vờn ngọc. Đây là điểm chính của thắng cảnh, thường gọi là chùa chính.

Chùa Tiên Sơn có từ thời Lê Trịnh. Năm Canh Dần (1770) Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm đã đề một bài thơ bát cú ca ngợi cảnh đẹp của động này nhưng sau đó động bị đất đá và cây rừng che lấp.

Năm Quý Mão (1903), Hội Thiện thôn Yến Vĩ tìm thấy và mở lại. Năm Giáp Thìn (1904) đục thêm cửa đá lối vào bên phải. Năm Đinh Mùi (1907) tạc ba pho tượng đá trắng như bạch ngọc và đến năm Tân Hợi (1911) tạc thêm hai pho nữa. Về sau một số công trình nhân tạo bị giặc Pháp tàn phá. Từ năm 1994 đến 1996, Tổ Đường, Bảo Điện và Tả Hữu vu được phục hồi và tôn tạo.

Đền Cửa Võng còn gọi là Đền Trấn Song, Vân Song do Đại sư Thanh Tích khai sáng vào năm 1908 ở thế giá mắc võng cửa sơn xuyên, trước mặt có dãy núi “rồng chầu mặt nguyệt.”

Năm 1993 và 1995, sân đền được trùng tu và mở rộng. Nơi đây thờ Thanh Y công chúa, tục gọi là Bà chúa Thượng ngàn. Tương truyền nơi đây là nơi ở của các tiên nữ thường xuyên mang tin tức từ chùa ngoài vào chùa trong.

Động Đại Binh còn gọi là Thần Binh được khai sáng vào ngày 2/3 năm Tân Mùi (1991) do ông Nguyễn Văn Bạo và ông Bùi Văn Xế chủ trương. Ngày 6/1 năm Quí Dậu (1993) hai cư sỹ này viết đơn cúng cho nhà chùa và sát nhập vào khu di tích của Giáo hội Phật giáo.

Động này vốn có từ lâu, lưu dấu tích một đạo quân người dân tộc thiểu số do hai ông Đinh Công Tráng và Đinh Công Vân khởi nghĩa chống Pháp, sau bị vây hãm và tuẫn tiết ở nơi này. Ông đã cho khắc hai chữ “Đại binh” lên cửa động để ghi dấu. Vì vậy động còn có tên là hang “Nghĩa Quân.”

Động Hinh Bồng: năm Nhâm Thân (1932), Hội Thiện thôn Yến Vĩ khai sơn một tòa động nhỏ trên ngọn núi cao ở thung lũng Cây Gạo gọi là động Động Hinh Bồng với sự tài trợ của một Phật tử ở Hải Phòng.

Năm Giáp Tuất (1934) Ni sư Đàm Tuyết được thỉnh về trụ trì. Ngày 18/7 năm Quý Dậu (1993), chùa Bồng Doanh được xây dựng thêm ở bên cạnh để duy trì khu thánh tích này./.

(TTXVN)

Tin cùng chuyên mục