Với những tính năng ưu việt, dòng sản phẩm vật liệu xây không nung được xác địnhsẽ chiếm lĩnh thị trường xây dựng trong tương lai, giảm dần tỷ lệ vật liệu nung.Mặc dù có các tiêu chí rất rõ ràng nhưng trong quá trình thực hiện lộ trình pháttriển vật liệu xây không nung vẫn nảy sinh nhiều khó khăn, vướng mắc cần một“đòn bẩy” gỡ khó.
Nên chọn hướng nào?
Nhu cầu về vật liệu xây tại Việt Nam tăng rất nhanh, khoảng 10-12%/năm. Nếu theoQuy hoạch tổng thể phát triển vật liệu xây dựng Việt Nam đến năm 2020, nhu cầusử dụng vật liệu xây vào năm 2015 và 2020 tương ứng khoảng 32 và 42 tỷ viên quytiêu chuẩn.
Tuy nhiên, để sản xuất một tỷ viên gạch đất sét nung quy tiêu chuẩn sẽ tiêu tốnkhoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75ha đất nông nghiệp (độ sâu khai tháclà 2m) và 150.000 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 0,57 triệu tấn khí CO2 -tác nhân gây hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môitrường. Như vậy, đến năm 2020, nếu đáp ứng nhu cầu vật liệu xây hoàn toàn bằnggạch đất sét nung sẽ tiêu tốn mỗi năm khoảng 57-60 triệu m3 đất sét, tương đương2.800 đến 3.000ha đất nông nghiệp làm ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia;đồng thời tiêu tốn 5,3-5,6 triệu tấn than và thải ra môi trường khoảng 17 triệutấn khí CO2.
Bức tranh được phác họa từ những con số trên chính là lời thúc giục các doanhnghiệp sản xuất vật liệu xây dựng buộc phải trả lời câu hỏi “nên chọn hướngnào?” để đảm bảo hài hòa lợi ích của cả cộng đồng.
Hiện nhiều nước trên thế giới đã loại bỏ vật liệu nung và thay thế bằng vật liệuxây không nung. Tại Việt Nam , phương án này cũng đã được ghi nhận và triển khaithực tế. Các chuyên gia trong ngành ghi nhận việc sử dụng vật liệu xây khôngnung sẽ hạn chế được các tác động bất lợi nêu trên, đồng thời đem lại nhiều hiệuquả tích cực về các mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường. Quá trình sản xuấtvật liệu xây không nung còn giúp tiêu thụ một phần đáng kể phế thải các ngànhkhác như nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng..., góp phần tiết kiệm tài nguyênthiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường cũng như các chi phí xử lý phế thải.
Theo quy hoạch phát triển ngành điện và luyện kim, lượng tro, xỉ phát thảihàng năm sẽ tăng rất nhanh. Dự kiến đến năm 2020, lượng phế thải tro, xỉ khoảng45 triệu tấn sẽ mất khoảng 1.100ha mặt bằng chứa phế thải. Trong khi đó, nếu táisử dụng một phần nguồn thải này không chỉ giúp giải phóng được mặt bằng kho bãimà còn tiết kiệm nguyên liệu sản xuất.
Đặc biệt, các loại vật liệu xây không nung đã nhanh chóng chứng minh được một sốưu điểm nổi bật như: nhẹ - giúp giảm tải trọng công trình, do đó tiết kiệm chiphí làm móng và khung chịu lực, đẩy nhanh tiến độ thi công; tính cách nhiệt cao,góp phần tích cực vào chương trình tiết kiệm năng lượng. Bởi vậy, Quyết định số567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 về Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đếnnăm 2020 đã nêu rõ mục tiêu phát triển dòng sản phẩm này.
Theo đó, sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung nhằm thay thế gạch đấtsét nung, tiết kiệm đất nông nghiệp, góp phần bảo đảm an ninh lương thực quốcgia, giảm thiểu khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính và ô nhiễm môi trường, giảmchi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, tiết kiệm nhiên liệu than, đemlại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội.
Đối diện khó khăn
Tuy nhiên, Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam thừa nhận rằng mặc dù đã cócác tiêu chí rất rõ ràng nhưng trong quá trình thực hiện lộ trình này vẫn nảysinh nhiều khó khăn, vướng mắc cần sớm được tháo gỡ.
Do các nhà máy sản xuất bêtông nhẹ ra đời vào lúc kinh tế nước gặp khó khăn, lạmphát cao, đầu tư công bị cắt giảm, thị trường bất động sản trầm lắng, chi phítài chính lớn... khiến dòng sản phẩm này tiêu thụ chậm, hàng tồn kho nhiều dẫnđến sản xuất bị ngừng trệ.
Thống kê tình hình sản xuất và tiêu thụ một số loại sản phẩm vật liệuxây không nung trong năm 2011 cho thấy đa số các dây chuyền gạch block đãsản xuất hết công suất, tổng sản lượng đạt khoảng ba tỷ viên quy tiêuchuẩn nhưng sản lượng tiêu thụ chỉ đạt khoảng 85-90% lượng sản xuất.Cùng đó, gạch bêtông nhẹ với sản lượng bêtông khí khoảng 0,4 triệu m3,bêtông bọt khoảng 0,1 triệu m3 cũng chỉ có mức tiêu thụ vào khoảng 50-60% sảnlượng. Tấm tường thạch cao, tấm 3D cùng một số chủng loại sản phẩm khác cũngrơi vào tình trạng ế ẩm tương tự...
Nguyên nhân được chỉ ra là do các nhà đầu tư còn thiếu kinh nghiệm, nguồn vốnlại hạn chế nên phần lớn chỉ nhập hệ thống dây chuyền công nghệ với trình độtrung bình, thiếu đồng bộ. Cùng đó, công tác chuyển giao công nghệ, kỹ thuật sảnxuất và tiếp thu công nghệ chưa tốt; cộng với đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuậtchưa được đào tạo chu đáo... nên các nhà máy phải vừa sản xuất vừa điều chỉnh,khắc phục các mặt yếu để ổn định sản xuất.
Khó khăn càng dồn đến với doanh nghiệp khi lãi suất vay vốn để đầu tư vào sảnxuất tăng ở mức cao (quanh mốc 20%/năm) trong khi thủ tục vay vốn tại các ngânhàng thương mại cũng rất khó khăn. Những yếu tố này khiến giá thành sản xuấttăng. Điển hình như giá thành sản xuất bêtông khí chưng áp AAC hiện tại cao hơnso với gạch đất sét nung khoảng 20-25% do chi phí sản xuất cao hơn. Như vậy, khókhuyến khích phát triển vật liệu xây không nung. Trong khi đó, nhiều doanhnghiệp sản xuất vật liệu xây không nung vẫn chưa được hưởng các ưu đãi theo quyđịnh tại Quyết định 567 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 108/2006/NĐ-CPngày 22/9/2006 của Chính phủ.
Mặt khác, nhận thức của các nhà đầu tư, tư vấn thiết kế, nhà thầu và người tiêudùng về dòng sản phẩm này chưa đầy đủ; thậm chí thiếu hiểu biết về vật liệu xâykhông nung nói riêng và bê tông khí nói chung. Để đạt các mục tiêu đã đề ratrong lộ trình phát triển vật liệu xây không nung cần có sự trợ giúp của cả xãhội, nhất là các chủ thể tham gia hoạt động xây dựng và người tiêu dùng.
Đón chờ “đòn bẩy”
Chương trình 567 với mục tiêu phát triển sản xuất và sử dụng vật liệuxây không nung thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015 đãđược xã hội và các doanh nghiệp rất quan tâm. Chỉ tính ba chủng loạisản phẩm chính là gạch ximăng-cốt liệu, gạch bêtông khí chưng áp vàgạch bêtông bọt thì tổng công suất đầu tư đã đạt 4,2 tỷ viên quy tiêuchuẩn/năm, chiếm từ 16-17 % so với tổng sản lượng vật liệu xây năm 2011,ước đạt 25 tỷ viên. Trong khi đó, cuối năm 2008, sản lượng vật liệu xâykhông nung mới chỉ chiếm 8-8,5%. Điều này cho thấy các doanh nghiệp đã chủđộng chọn hướng đi mới.
Cùng đó, tỷ lệ gạch nhẹ trên tổng số vật liệu xây không nung phấn đấu đạtmục tiêu khoảng 21% vào năm 2015 và 25% vào năm 2020 thì nay đã đạt 1,2tỷ viên quy tiêu chuẩn/năm (chiếm khoảng 28,6%) - vượt mục tiêu đề ra. Tổnggiá trị các doanh nghiệp đã đầu tư đến cuối năm 2011 khoảng hơn 2.500 tỷđồng, trong đó đầu tư sản xuất vật liệu xây không nung nhẹ (bêtông khíchưng áp và bêtông bọt) cũng gần 1.000 tỷ đồng.
Tuy nhiên, đòn bẩy thực sự cho thị trường chính là Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày16/4/2012 về tăng cường sử dụng vật liệu không nung, hạn chế sử dụng gạch đấtsét nung của Chính phủ. Cùng với các hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật đã đượcBộ Xây dựng ban hành, các doanh nghiệp kỳ vọng đây sẽ là lối mở để vật liệukhông nung tiến quân, trước tiên là vào các công trình sử dụng vốn ngân sách.
Với sự hỗ trợ của các cơ chế chính sách, cùng những ủng hộ tích cực từ xãhội, hy vọng thời gian tới các doanh nghiệp sản xuất vật liệu không nung có thểtoàn tâm toàn ý tập trung xúc tiến thương mại và quảng bá kích cầu sản phẩm./.
Thu Hằng (TTXVN)