Tình trạng thất nghiệp dài hạn ở Mỹ bớt căng thẳng

Theo số liệu của Bộ Lao động Mỹ, số người thất nghiệp tại nước này thấp hơn 1,5 triệu người so với mức đỉnh vào tháng 4/2010.
Tình trạng gia tăng số lao động thất nghiệp dài hạn ở Mỹ, điều mà Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) Ben Bernanke đã dẫn ra như một bằng chứng về “sự khác thường” của thị trường việc làm, cuối cùng đã giảm bớt.

Số liệu của Bộ Lao động Mỹ cho thấy trong tháng Bảy vừa qua số người lao động nước này bị mất việc trong 27 tuần hoặc lâu hơn thấp hơn 1,5 triệu người so với mức đỉnh vào tháng 4/2010.

Số lao động thất nghiệp dài hạn chiếm 41% tổng số người thất nghiệp, tỷ lệ thấp nhất kể từ năm 2009.

Trong khi đó, thời gian thất nghiệp trung bình đã giảm xuống 39 tuần trong tháng Bảy, mức thấp nhất trong 15 tháng.

Tuy nhiên, con số này vẫn cao gấp đôi so với mức trong cuộc suy thoái năm 1981-82, khi tỷ lệ thất nghiệp là 10,8%, so với mức 10% vào tháng 10/2009.

Tin tốt cho các công ty Mỹ là 5,2 triệu người thất nghiệp dài hạn do việc tìm kiếm việc làm khó khăn đã trở nên hào hứng hơn khi trở lại với công việc.

Hầu hết những người được thuê lại đã phải chấp nhập mức lương bị giảm đi so với trước, cho phép các công ty duy trì được chi phí nhân công ở mức thấp, tăng lợi nhuận trong thời điểm doanh số bán èo uột sau cuộc suy thoái sâu nhất kể từ những năm 1930.

54% số người thất nghiệp dài hạn đã phải chấp nhận mức lương thấp hơn để có việc làm mới và 1/3 số người này cho biết lương của họ giảm ít nhất là 20% so với mức lương mà chủ cũ trả.

Lương tháng và công nhật, vốn chiếm khoảng 70% tổng chi phí nhân công, tăng 0,4% trong quý 2, sau khi tăng 0,5% trong quý 1. Điều này đã góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động và lợi nhuận của doanh nghiệp.

71% số công ty trong chỉ số Standard & Poor’s 500 báo cáo lợi nhuận vượt dự báo chung của các nhà phân tích trong quý II vừa qua.

Tuy nhiên, ông Mark Zandi, nhà kinh tế trưởng của Moody’s Analytics Inc. ở West Chester, Pennsylvania, cho rằng mặc dù tỷ lệ thất nghiệp dài hạn giảm, con số vẫn cao gấp đôi so với mức khi thị trường việc làm trong trạng thái bình thường.

Đây là nguyên nhân chính khiến FED vẫn duy trì tình trạng cảnh báo cao và thiên về việc nới lỏng định lượng bổ sung.

Bên cạnh đó, ông Charles Lieberman, quan chức cấp cao về đầu tư ở Advisors Capital Management LLC, cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức gần mục tiêu 2% của FED sẽ giúp Ủy ban Thị trường mở Liên bang có được sự linh hoạt trong các biện pháp kích thích tăng trưởng tại cuộc họp trong hai ngày 12-13/9.

FED đã duy trì lãi suất chuẩn ở mức gần 0% kể từ tháng 12/2008 và hai đợt mua trái phiếu đã khiến bản quyết toán của ngân hàng này tăng lên tới mức kỷ lục gần 3.000 tỷ USD.

Do thất nghiệp dài hạn, người tiêu dùng Mỹ thận trọng hơn nhiều trong chi tiêu, với việc tiết kiệm cho lúc eo hẹp về tiền nong.

Theo số liệu từ Cục Phân tích kinh tế, tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập khả dụng là 4,2% trong tháng Bảy, tăng từ mức 3,2% trong tháng 11.

Chi tiêu tiêu dùng, vốn chiếm 70% GDP, tăng 1,7% trong quý trước, so với mức trung bình 2,1% kể từ khi cuộc suy thoái kéo dài 18 tháng kết thúc vào tháng 6/2009 và 2,9% trong hai thập niên qua.

Theo dự báo của các nhà kinh tế tham gia điều tra của Bloomberg, số việc làm mới được tạo thêm trong tháng trước sẽ vào khoảng 125.000, trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức 8,3% trong tháng thứ hai liên tiếp./.

Lê Minh (TTXVN)

Tin cùng chuyên mục