Triển vọng nào cho hợp tác khí hậu giữa Trung Quốc và phương Tây?

Bắt đầu từ Hội nghị thượng đỉnh khí hậu ở Nhà Trắng vào tháng 4/2021, Mỹ và Trung Quốc sẽ khởi động một cuộc đọ sức 10 năm trên lĩnh vực khí hậu.
Triển vọng nào cho hợp tác khí hậu giữa Trung Quốc và phương Tây? ảnh 1Khói phát thải ra từ một nhà máy lọc dầu ở Houston, bang Texas, Mỹ. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Trang mạng của Viện Chính sách Chiến lược Australia (ASPI) ngày 2/6 đăng bài viết của chuyên gia nghiên cứu David Uren thuộc Trung tâm Nghiên cứu Mỹ, Đại học Sydney, với nhận xét biến đổi khí hậu đã nổi lên như một lĩnh vực hợp tác hiếm có giữa Trung Quốc và phương Tây trong năm 2021.

Tuy nhiên, vẫn còn phải chờ xem liệu điều này có kéo dài cho đến Hội nghị về Biến đổi khí hậu lần thứ 26 của Liên hợp quốc tại Glasgow vào tháng 11 tới hoặc xa hơn hay không.

Trong khi Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đã có một màn đấu khẩu khi gặp người đồng cấp Trung Quốc ở Alaska vào tháng 3/2021, đặc phái viên về khí hậu của Tổng thống Joe Biden John Kerry đã được chào đón nồng nhiệt trong chuyến thăm Thượng Hải vào tháng Tư vừa qua với một thông cáo chung hứa hẹn hợp tác và hành động cụ thể.

[Liên hợp quốc nối lại các cuộc đàm phán về khí hậu]

Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu cho phép các quốc gia tự đặt mục tiêu và theo đuổi các phương pháp riêng để đạt được mục tiêu đó, với đích chung là giữ cho nhiệt độ toàn cầu không tăng quá 2 độ C so với mức của thời kỳ tiền công nghiệp và các bên có thể gia tăng tham vọng của mình tại mỗi cuộc đàm phán.

Tuy nhiên, cách thức khác nhau mà Mỹ, châu Âu và Trung Quốc theo đuổi lại tạo ra nguy cơ xung đột.

Quyết tâm của nước Mỹ

Điểm đáng chú ý đầu tiên là cơ chế điều chỉnh biên giới carbon của Liên minh châu Âu (EU). Về cơ bản, đây là thuế carbon đối với hàng nhập khẩu. Chi tiết về cơ chế này sẽ được công bố trong những tuần tới.

Chủ tịch Tập Cận Bình đã nêu rõ những lo ngại của Trung Quốc về đề xuất này trong cuộc họp trực tuyến với Thủ tướng Đức Angela Merkel và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron hồi tháng Tư vừa qua.

Ông Tập Cận Bình nói: “Biến đổi khí hậu không nên trở thành một con chip địa chính trị, một mục tiêu để tấn công các quốc gia khác hoặc một cái cớ cho các rào cản thương mại.”

Trung Quốc gần đây đã áp đảo các quốc gia mới nổi trong chính trị khí hậu toàn cầu. Ông Tập Cận Bình đã sử dụng bài phát biểu của mình tại Liên hợp quốc vào tháng Chín năm ngoái để cam kết Trung Quốc đạt được mức trung lập carbon vào năm 2060.

Đây là một cam kết đưa Trung Quốc vượt lên trước Mỹ - quốc gia đã từ bỏ các cam kết giảm thiểu khí thải dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump, mặc dù người thay thế ông là Tổng thống Joe Biden đã hứa sẽ xác định biến đổi khí hậu là nhiệm vụ trọng tâm của mình.

Triển vọng nào cho hợp tác khí hậu giữa Trung Quốc và phương Tây? ảnh 2(Nguồn: aspistrategist.org.au)

Tiếp theo những gì mà Trung Quốc quảng cáo là “Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu” với hai nhà lãnh đạo phương Tây là bà Merkel và ông Macron, ông Tập Cận Bình đã tham dự “Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu” của riêng Tổng thống Biden cùng với 40 nhà lãnh đạo thế giới được tổ chức vào “Ngày Trái Đất” một tuần sau đó.

Ông Biden đã sử dụng cuộc họp để thông báo đến năm 2030, Mỹ sẽ giảm lượng khí thải carbon từ 50-52% so với mức năm 2005. Cam kết này tham vọng hơn rất nhiều so với cam kết dưới thời chính quyền cựu Tổng thống Barack Obama về việc cắt giảm 26-28% vào năm 2025.

Bằng cách triệu tập hội nghị thượng đỉnh, ông Biden đang khẳng định vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu.

Về phía mình, ông Tập Cận Bình nói rằng Trung Quốc hoan nghênh việc Washington “quay trở lại tiến trình quản trị khí hậu đa phương” và rằng trong một bình luận với ngôn từ được lựa chọn cẩn thận, ông nói: “Chúng ta phải duy trì tính liên tục, không dễ dàng đảo ngược tiến trình và chúng ta phải tôn trọng các cam kết, không thay đổi lời hứa."

Hợp tác hay cạnh tranh?

Dưới góc độ tái cấu trúc chính sách đối nội và đối ngoại của Tổng thống Joe Biden, bắt đầu từ Hội nghị thượng đỉnh khí hậu ở Nhà Trắng vào tháng 4/2021, Mỹ và Trung Quốc sẽ khởi động một cuộc đọ sức 10 năm trên lĩnh vực khí hậu.

Theo phương án của ông Joe Biden, Mỹ muốn thực hiện mục tiêu không phát thải khí nhà kính vào năm 2050. Dưới sự lôi kéo và sức ép của Mỹ, các nước như Nhật Bản, Canada... đều nâng cao mức độ cắt giảm phát thải, đồng thời đưa ra cam kết cắt giảm phát thải từ 40-50%. Tuy nhiên, Trung Quốc, Ấn Độ và Nga không đưa ra mục tiêu cắt giảm phát thải mới.

Nếu nói Hội nghị khí hậu Copenhagen năm 2009 là sự kiện thể hiện rõ yếu tố tranh giành giữa các nền kinh tế phát triển do Mỹ, châu Âu đại diện và các nền kinh tế mới nổi do Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil đại diện, thì hợp tác và đọ sức về khí hậu trong giai đoạn tới sẽ thể hiện rõ hơn sự cạnh tranh quyết liệt giữa Mỹ và Trung Quốc trên lĩnh vực cách mạng năng lượng mới ở trong lẫn ngoài nước.

Trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị, ý thức hệ và xung đột lợi ích quốc gia ngày càng gay gắt, mặc dù biến đổi khí hậu có thể khơi thông quan hệ Mỹ-Trung, việc bị ràng buộc bởi giai đoạn phát triển và tính toán lợi ích khác nhau rõ ràng đã trở thành chiến trường mới của cuộc đọ sức Mỹ-Trung.

Lập trường của Mỹ về vấn đề khí hậu không ổn định, chính sách thay đổi liên tục, đặc biệt các Tổng thống thuộc phái bảo thủ hoài nghi tính khoa học và tính cấp thiết về vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu của Mỹ.

Ở mức độ nhất định, việc cựu Tổng thống Bush và Donald Trump lần lượt rút khỏi "Nghị định thư Kyoto" và "Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu" do chính quyền phái tự do ký trước đó đã khiến cho Mỹ mất đi vai trò lãnh đạo về vấn đề khí hậu.

Trong bối cảnh đó, Hội nghị biến đổi khí hậu lần này do ông Joe Biden chủ trì là sự kéo dài chính sách ngoại giao đồng minh và quan điểm giá trị trong giai đoạn gần đây nhằm lấy lại tín nhiệm của cộng đồng quốc tế, định hình lại vai trò lãnh đạo của Mỹ, kiểm soát quyền phát ngôn về vấn đề khí hậu, đồng thời gắn chặt kinh tế năng lượng mới với đầu tư trong nước, nâng cao sức cạnh tranh của Mỹ với Trung Quốc.

Trong khi đó, khác với sự dao động và mất uy tín của Mỹ trong vấn đề khí hậu, Trung Quốc tích cực và chủ động hơn trong vấn đề ứng phó biến đổi khí hậu, hơn nữa tuân thủ nghiêm ngặt các cam kết của mình.

Từ "Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu" năm 1994, đến "Nghị định thư Kyoto" năm 1997, rồi đến "Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu" năm 2015, tâm thế ứng phó biến đổi khí hậu toàn cầu của Bắc Kinh đã chuyển từ tham gia bị động sang tích cực tham gia.

Một Trung Quốc thông qua ngoại giao đa phương thúc đẩy "Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu" năm 2015 đã khác với Trung Quốc tranh luận gay gắt, từ chối nhượng bộ Mỹ tại Hội nghị khí hậu Copenhagen của Liên hợp quốc năm 2009.

Cùng với vấn đề quản trị khí hậu toàn cầu được đưa vào Hiến pháp và các văn kiện chính sách, Bắc Kinh hiện nay đã chuyển từ bên tích cực tham gia sang bên dẫn dắt tích cực.

Ngay từ trước khi ông Joe Biden lên cầm quyền, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhanh chóng đi trước với tuyên bố tại hội nghị thượng đỉnh "Tham vọng khí hậu" năm 2020 rằng đến năm 2030, cường độ phát thải khí CO2 trên một đơn vị GDP của Trung Quốc sẽ giảm trên 65% so với năm 2005, năng lượng phi hóa thạch sẽ chiếm khoảng 25% tỷ trọng tiêu thụ năng lượng cấp một. Tất cả đều đã thể hiện mong muốn chủ quan và ý thức chủ động trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu của Trung Quốc.

Từ việc đưa văn minh sinh thái vào "Quy hoạch 5 năm lần thứ 13" đến hoạch định riêng năng lượng và điện lực ứng phó biến đổi khí hậu trong "Quy hoạch 5 năm lần thứ 14," rồi đến kiên trì tuân thủ cam kết của "Hiệp định Paris về biến đổi khí hậu" và kết nối "hai mục tiêu trăm năm," có thể thấy rằng Chính phủ Trung Quốc đã xác định ứng phó biến đổi khí hậu là một công trình chiến lược.

Năm 2018, Trung Quốc đã thành lập Bộ Sinh thái và môi trường, duy trì phối hợp chặt chẽ với Bộ Ngoại giao về vấn đề khí hậu.

Những thay đổi lớn của Trung Quốc trong 10 năm ngắn ngủi này không phải do áp lực bên ngoài, sức ép giảm phát thải của Mỹ, mà là sự điều chỉnh chiến lược dựa vào nhu cầu bên trong và bên ngoài, cũng như sự thay đổi của môi trường Trung Quốc. Một mặt, nhu cầu của người dân Trung Quốc đối với chất lượng môi trường và không khí, mưu cầu hạnh phúc cuộc sống đều tăng lên.

Nguy cơ xung đột

Mặc dù vậy, cả Trung Quốc và Mỹ đều phải đối mặt với những câu hỏi về độ tin cậy của các cam kết về khí hậu. Ông Biden đã tránh vấn đề giá carbon, điều mà đảng Cộng hòa phản đối, và ủng hộ kế hoạch kết hợp giữa đầu tư của chính phủ và ban hành các quy định pháp luật để đạt được mục tiêu, bao gồm khu vực điện năng trung hòa carbon vào năm 2035 và thúc đẩy xe ôtô điện.

Tuy nhiên, dự luật cơ sở hạ tầng và biến đổi khí hậu trị giá 2.300 tỷ USD của chính quyền Tổng thống Joe Biden cũng không hoàn toàn chắc chắn khi dự luật này cần phải được thông qua tại Quốc hội với các đảng viên Cộng hòa, nhiều người trong số này hoài nghi về biến đổi khí hậu và cho rằng kế hoạch này sẽ làm tăng giá điện và giảm việc làm.

Trong khi đó, Trung Quốc đã triển khai các chương trình kinh doanh carbon thí điểm từ năm 2013 và sẽ bắt đầu một kế hoạch chính thức trong lĩnh vực điện năng vào tháng này, với sự tham gia của 2.225 công ty điện lực giao dịch ở cả Thượng Hải và Vũ Hán.

Các công ty phải mua giấy phép phát thải nếu máy phát điện của họ vượt quá tiêu chuẩn cường độ carbon. Hiện chưa rõ các mức điểm chuẩn đó có được đặt đủ thấp để có thể làm giảm đám kể mức tiêu thụ than hay không.

Một phân tích của Viện Kinh tế Quốc tế Peterson cho biết quy hoạch 5 năm mới nhất của Trung Quốc, được công bố vào tháng 3 đặt ra các mục tiêu ràng buộc giảm lượng khí thải carbon trên một đơn vị GDP là 18%, song quy hoạch này không cho biết cách thức để đạt được những mục tiêu đó ngoài việc chỉ đơn giản là kêu gọi các cơ quan chính phủ xây dựng kế hoạch.

Trung Quốc đã chỉ ra rằng kế hoạch kinh doanh carbon của nước này sẽ đủ để miễn thuế biên giới EU, nhưng điều này khó có thể xảy ra. Thuế biên giới, sẽ áp dụng từ năm 2023, dự kiến sẽ áp dụng một loại thuế có thể làm tăng chi phí nhập khẩu lên mức giống như khi các nhà cung cấp nước ngoài đã chi trả cho carbon trong hàng hóa của mình theo giá carbon châu Âu.

Thuế sẽ được áp dụng từng bước nhưng có khả năng sẽ được áp dụng trước tiên đối với các mặt hàng có cường độ carbon cao như thép, nhôm và xi măng. Trung Quốc chiếm khoảng 1/4 lượng carbon có trong hàng hóa nhập khẩu vào châu Âu. Điều này phản ánh việc sử dụng than đá tương đối cao trong sản xuất điện cũng như trong sản xuất hàng hóa sử dụng nhiều năng lượng của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Một nghiên cứu của Ngân hàng Phần Lan ước tính rằng thuế biên giới được đề xuất sẽ cộng thêm từ 2-5% vào chi phí hàng năm của Trung Quốc là 598 tỷ USD hàng xuất khẩu sang châu Âu.

Các nhà phân tích dự đoán rằng trừ khi Bắc Kinh nhận được các miễn trừ mà họ đề xuất, nước này có thể kiện việc EU áp thuế lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vì hành vi vi phạm các quy tắc thương mại và thực hiện chủ nghĩa bảo hộ.

Tất cả các bên dự kiến sẽ có thông tin chi tiết về cách họ lên kế hoạch đạt mục tiêu giảm thiểu carbon trong Hội nghị thượng đỉnh Glasgow vào tháng 11 tới. Bắc Kinh đang hy vọng rằng cùng với các quốc gia mới nổi khác, họ sẽ chỉ bị ràng buộc ở mức tham vọng thấp hơn các quốc gia tiên tiến.

Tại Hội nghị thượng đỉnh về khí hậu do Tổng thống Joe Biden khởi xướng, ông Tập Cận Bình nói rằng trước "các trách nhiệm chung nhưng khác biệt" trong quản lý khí hậu, những quốc gia tiên tiến cần hỗ trợ các quốc gia đang phát triển giảm lượng khí thải.

Châu Âu và Mỹ sẽ cho rằng Trung Quốc đưa ra tuyên bố này để trốn tránh trách nhiệm của mình. Trong khi Trung Quốc chỉ ra các quốc gia tiên tiến, dẫn đầu là Mỹ, chiếm nhiều nhất trong tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và phát thải bình quân đầu người trên toàn cầu, thì các quốc gia này lại cho rằng Trung Quốc có tổng lượng khí thải cao nhất và lượng khí thải của nước này đang tăng nhanh nhất.

Thật vậy, dữ liệu mới nhất cho thấy lượng khí thải của Trung Quốc đang tăng với tốc độ nhanh nhất trong một thập kỷ. Nước này ghi nhận kỷ lục 12 tỷ tấn carbon dioxide thải ra trong năm qua, vượt 5% so với mức trước khi đại COVID-19 bùng phát.

Trong khi đó, sản lượng nhiệt điện than cũng tăng 12% và đóng góp 73% vào mức tăng trưởng tổng sản lượng điện trong năm 2020./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục