Trục hàng hải toàn cầu trong nhiệm kỳ hai của Tổng thống Indonesia

Năm 2014, khi vừa đắc cử Tổng thống Indonesia nhiệm kỳ đầu tiên, ông Jokowi đã nhấn mạnh tham vọng biến Indonesia trở thành một trung tâm hàng hải toàn cầu.
Trục hàng hải toàn cầu trong nhiệm kỳ hai của Tổng thống Indonesia ảnh 1Tổng thống Indonesia Joko Widodo (trái) phát biểu tại thủ đô Jakarta. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Ông Joko Widodo (Jokowi) sẽ chính thức nhậm chức Tổng thống Indonesia nhiệm kỳ hai vào tháng 10/2019, sau khi Tòa án Hiến pháp Indonesia đưa ra phán quyết cuối cùng bác bỏ đơn kiện của ứng cử viên Prabowo, đối thủ của ông Jokowi trong cuộc đua giành chiếc ghế Tổng thống Indonesia vừa qua, về những cáo buộc gian lận bầu cử.

Đường hướng, chính sách kinh tế và đặc biệt là chiến lược Trục hàng hải toàn cầu (GMF) sẽ được chính phủ của Tổng thống Jokowi thực hiện như thế nào trong nhiệm kỳ hai và liệu ông Jokowi có tiếp tục sử dụng GMF để khơi dậy tiềm năng biển của Indonesia hay không… là những vấn đề đang được giới quan sát hết sức quan tâm.

Năm 2014, khi vừa đắc cử Tổng thống Indonesia nhiệm kỳ đầu tiên, ông Jokowi đã nhấn mạnh tham vọng biến Indonesia trở thành một trung tâm hàng hải toàn cầu. Tham vọng này sẽ được hiện thưc hóa bằng một chiến lược cụ thể.

Chiến lược này được ông Jokowi đưa ra trong bối cảnh mà theo ông, Indonesia đã lãng quên và xem nhẹ vai trò tiềm năng của hàng hải từ rất lâu. Do đó, ông muốn vực dậy và phát huy tiềm năng biển của Indonesia bằng một chiến lược với tên gọi Trục hàng hải toàn cầu.

Chiến lược GMF do Tổng thống Jokowi đưa ra được xây dựng trên bảy trụ cột chính, bao gồm tiềm lực hàng hải và nguồn lực con người; quốc phòng, an ninh, thực thi pháp luật và an toàn trên biển; quản trị hàng hải; kinh tế hàng hải và cơ sở hạ tầng; quản lý không gian hàng hải và bảo vệ môi trường; văn hóa hàng hải; và ngoại giao hàng hải.

Theo giới chuyên gia, GMF là một chiến lược đầy tham vọng của Tổng thống Jokowi, và nếu thực hiện thành công Indonesia sẽ hoàn toàn bá chủ trong lĩnh vực hàng hải tại khu vực Đông Nam Á, trở thành trung tâm trung chuyển hàng hải quan trọng của thế giới, kết nối các tuyến vận tải biển quốc tế…

Tuy nhiên, việc thúc đẩy thực hiện GMF của chính quyền Tổng thống Jokowi đang ở giai đoạn nào sau khi ông kết thúc nhiệm kỳ đầu tiên? Và trong nhiệm kỳ hai này, GMF sẽ được chính phủ của ông Jokowi thực hiện ra sao? Cần đánh giá trên cơ sở xem xét 3 lĩnh vực chính liên quan đến việc thúc đẩy chiến lược này, đó là kinh tế và các chính sách trong việc kết nối hàng hải; chính sách quốc phòng và quân sự; và chính sách đối ngoại.

Về mặt kinh tế, Indonesia đã có sự cải thiện đáng kể về cơ sở hạ tầng và kết nối hàng hải. Dưới thời của Tổng thống Jokowi, Indonesia đã có ít nhất 19 cảng biển mới được xây dựng trên khắp lãnh thổ quốc gia và 8 cảng biển đang trong quá trình xây dựng và dự kiến sẽ được hoàn thành trong năm 2019. Tuy nhiên, cường độ xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho giao thông hàng hải vẫn còn hạn chế hơn rất nhiều so với việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất liền.

Trong số 37 dự án ưu tiên cấp quốc gia do Ủy ban phân phối cơ sở hạ tầng Indonesia (KPPIP) đưa ra, chỉ có 4 dự án liên quan đến phát triển cảng biển, trong đó có dự án xây dựng Trung tâm cảng biển quốc tế Kuala Tanjung ở Bắc Sumatra và Cảng trung tâm quốc tế Bitung ở Bắc Sulawesi. Các dự án ưu tiên còn lại vẫn tập trung vào cơ sở hạ tầng trên đất liền, bao gồm 6 dự án đường cao tốc lớn và 4 dự án đường sắt…

[Ông Widodo cam kết là "Tổng thống của tất cả người dân Indonesia"]

Xét ở góc độ nhất định, việc phân bổ các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng này có phần dễ hiểu vì Indonesia là quốc gia chưa hoàn thiện cơ sở hạ tầng trên bộ. Theo thống kê, năm 2016 số đường bộ của Indonesia chỉ chiếm 6,2% tổng diện tích đất của nước này, thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực, chẳng hạn như so với Singapore là 15%.

Hơn nữa, việc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất liền không loại trừ khả năng tạo ra các kết nối để phục vụ cho việc kết nối hàng hải. Nhưng đánh giá một cách khách quan, tác động của sự phát triển này vẫn còn hạn chế vì hai lý do chính.

Thứ nhất, các dự án phát triển cảng biển của Inodnesia không đi kèm với nỗ lực của chính phủ trong giảm bớt các thủ tục hành chính phiền hà, quan liêu. Mặc dù có nhiều cải cách hành chính được đưa ra trong bốn năm qua, nhưng nhiều vấn đề liên quan trong lĩnh vực này vẫn phải tuân theo các cơ chế bất hợp lý của địa phương.

Nhiều thủ tục liên quan đến việc vận chuyển hàng hóa bị chồng chéo, cản trở hoạt động vận tải biển. Chẳng hạn, hiện nay có hơn 10 cơ quan liên quan đến cấp phép quy trình xử lý giao nhận hàng hóa tại cảng Tanjung Priok, cảng chính Jakarta.

Sự rườm rà về thủ tục hành chính của các cơ quan này đã tạo ra những rào cản vô cùng lớn đối với các doanh nghiệp vận tải biển. Chưa dừng lại ở những khó khăn này, các doanh nghiệp vận tại biển của Indonesia còn đang chịu ảnh hưởng của việc tích hợp chuỗi cung ứng các dịch vụ với nhiều thủ tục đăng ký phức tạp liên quan đến nhiều cơ quan khác nhau, từ trung ương đến địa phương…

Tất cả điều này tạo ra sự rườm rà, thiếu đồng bộ, gián tiếp cản trở các nỗ lực phát triển tiềm năng kết nối hàng hải của Indonesia.

Thứ hai, một số dự án trọng điểm của chính phủ được thiết kế để tạo ra lợi ích kinh tế cho đất nước nhưng đến nay vẫn trông chờ vào nguồn trợ cấp quốc gia do thiếu sự liên kết giữa các dự án và các hoạt động kinh tế địa phương.

Dự án Sea Toll (đường cao tốc trên biển) là một trong những dự án thuộc chương trình cải thiện kết nối và thương mại giữa các đảo của Indonesia bằng cách tăng cường vận chuyển hàng hóa qua biển.

Mặc dù đã bước sang năm thứ tư nhưng dự án này chưa phát huy hiệu quả để hoàn thành mục tiêu ban đầu đề ra do sự phát triển không đồng bộ giữa đảo Java và các đảo khác. Các tàu vận tải thường xuyên chở những tấn hàng cung cấp cho các đảo xa nhưng lại quay trở về với những khoang chứa hàng trống rỗng, tạo ra sự lãng phí vô cùng lớn.

Để tận dụng các chuyến tàu về trống rỗng, Chính phủ Indonesia đã chi 218,9 tỷ rupiah (khoảng 15,2 triệu USD) trong năm 2016, 355 tỷ rupiah năm 2017 và 447,6 tỷ rupiah năm 2018 để thu gom hàng hóa và các loại vật liệu xây dựng tại các nơi tàu vận tải trả hàng, phân phối cho các nơi khác.

Tác động của chính sách này vẫn chưa thực sự rõ ràng, hoạt động kinh tế ở phía Tây và phía Đông của Indonesia không ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể, Sea Toll được dự báo trong thời gian tới sẽ tiếp tục sống bằng trợ cấp của chính phủ. Nhưng Chính phủ Indonesia vẫn cho rằng, chương trình này đã thành công trong việc giảm giá các mặt hàng tại các tỉnh xa, đặc biệt là tại Papua, nơi giá hàng hóa cơ bản luôn cao hơn so với hầu hết các khu vực của Indonesia do chi phí hậu cần cao.

Về quốc phòng, khái niệm GMF chỉ mang lại một số thay đổi nhỏ đối với lực lượng Hải quân Indonesia, vốn chưa thực sự là động lực thúc đẩy việc hiện đại hóa lực lượng này. Mặc dù Sách trắng Quốc phòng năm 2016 của Indonesia có nội dung đề cập đến GMF, nhưng có rất ít thông tin về việc quân đội Indonesia (TNI) sẽ tập trung xây dựng lực lượng Hải quân. Thay vào đó, Sách trắng đề cập nhiều đến các vấn đề an ninh nội bộ và coi đây là mối đe dọa chính của Indonesia.

Tiếp tục cách tiếp cận của chính quyền trước đây, chính phủ của Tổng thống Jokowi tập trung hoàn thành đề án Lực lượng tối thiểu (MEF) vào năm 2024, trong đó sẽ trang bị cho lực lượng Hải quân 10-12 tàu ngầm, 56 tàu khu trục và tàu hộ tống, 66 tàu tuần tra. Mặc dù đã có những đơn hàng mua sắm tàu chiến trong ba năm qua, bao gồm 2 tàu ngầm lớp Nagapasa mua từ Hàn Quốc được bàn giao trong năm 2017 và 2018, chiếc thứ ba dự kiến được giao trong năm 2019.

Theo đánh giá của giới chuyên gia, Hải quân Indonesia không đủ khả năng hoàn thành mục tiêu MEF trong vòng 5 năm còn lại. Hiện tại, Hải quân nước này sở hữu 5 tàu ngầm (3 chiếc nữa sẽ được mua theo hợp đồng trị giá 1 tỷ USD với Công ty đóng tàu & kỹ thuật hàng hải Hàn Quốc), 13 tàu khu trục và 20 tàu hộ tống. Những hạn chế về ngân sách khiến Indonesia gặp khó khăn trong việc hiện đại hóa lực lượng quân đội nói chung và Hải quân nói riêng.

Năm 2014, sau khi đắc cử Tổng thống Indonesia, ông Jokowi cam kết tăng ngân sách quốc phòng lên 1,5% GDP trong 5 năm, với điều kiện tốc độ tăng trưởng GDP đạt 7%. Với mức tăng trưởng GDP hàng năm chỉ đạt 5% kể từ năm 2014, Chính phủ Indonesia chỉ chi từ 0,7-0,9% GDP cho ngân sách quốc phòng mỗi năm. Một vấn đề khác cũng đáng được lưu tâm. Trong ba năm qua, chính phủ của Tổng thống Jokowi chỉ chi khoảng 2 tỷ USD để mua 6 tàu ngầm từ Hàn Quốc.

Tuy nhiên, đối với một quốc gia có 84% lãnh thổ là biển như Indonesia, mức đầu tư này cho thấy Hải quân không phải là lực lượng được ưu tiên. Đặc biệt là trong bối cảnh Indonesia đã đưa ra chiến lược GMF, lực lượng Hải quân lẽ ra phải đóng vai trò rất lớn và được ưu tiên hiện đại hóa hơn cả.

Về chính sách đối ngoại, đây có lẽ là một lĩnh vực mà GMF có thể dựa vào để phát triển mạnh mà không gặp các trở ngại về thể chế và kỹ thuật. Với hầu hết các cuộc thảo luận trong khu vực xoay quanh khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Bộ Ngoại giao Indonesia đã tập trung nhiều vào lĩnh vực ngoại giao hàng hải, thông qua ngoại giao quốc phòng và các cuộc tập trận quân sự chung hoặc hợp tác dựa trên lợi ích hàng hải.

Từ đầu năm 2018, Bộ Ngoại giao Indonesia đã ưu tiên thúc đẩy khái niệm Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, nhấn mạnh tính trung tâm của ASEAN ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương mà Indonesia coi là một khu vực địa chiến lược duy nhất. Dưới thời Tổng thống Jokowi, Indonesia đã thúc đẩy mối quan hệ sâu sắc hơn với các nước lớn trong khu vực như Ấn Độ thông qua hợp tác hàng hải.

Tháng 7/2018, Indonesia và Ấn Độ đã đưa ra sáng kiến chung để phát triển cảng nước sâu ở Sabang nhằm tăng cường kết nối hàng hải, như một phần của chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương được cả hai bên nhất trí cao.

Cũng trong năm 2018, hai nước đã nâng cấp mối quan hệ từ Đối tác chiến lược lên Đối tác chiến lược toàn diện và đặc biệt chú trọng đến vấn đề hợp tác hàng hải. GMF dường như đang dần không được nhắc đến trong khi chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang được Indonesia thúc đẩy mạnh mẽ.

Với lý do tăng cường an ninh hàng hải và biên giới trên biển, thời gian qua, Indonesia cũng đã thể hiện một số hành động được xem là quyết đoán liên quan đến vấn đề bảo vệ chủ quyền biển tại khu vực Biển Đông, mặc dù phần lớn các hành động này được cho là xuất phát từ tình hình chính trị trong nước.

Hành động đáng chú ý của Indonesia đó là chính sách đánh chìm tàu cá vi phạm vùng biển Indonesia. Chính sách này do Bộ Biển và Nghề cá Indonesia thúc đẩy thực hiện, đã gây ra nhiều tranh cãi không những với các quốc gia có tàu cá bị đánh chìm mà còn trong chính một số quan chức của Indonesia.

Kể từ khi thực hiện chính sách này (năm 2015), trữ lượng cá của Indonesia đã tăng lên mức trung bình 12,5 triệu tấn mỗi năm, so với mức 7,1 triệu tấn năm 2014. Chính sách này đã phát đi một thông điệp mạnh mẽ tới các nước láng giềng của Indonesia về vấn đề bảo vệ nguồn lợi thủy sản quốc gia.

Ngoài chính sách đánh chìm tàu, tháng 7/2018, Bộ Điều phối Hàng hải Indonesia đã phát hành một bản đồ mới, trong đó đổi tên vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia thành Biển Bắc Natuna. Hành động này của Indonesia được giới quan sát coi là để bác bỏ và chống lại đường chín đoạn mà Trung Quốc tuyên bố ở Biển Đông.

Tuy nhiên, sau những phản ứng dữ dội từ phía Trung Quốc, Bộ Điều phối Hàng hải Indonesia tuyên bố rằng bản đồ này chỉ được phục vụ cho các cuộc thảo luận nội bộ, và đã vô tình bị rò rỉ ra ngoài.

Trong một động thái khác, tháng 12/2018, Tư lệnh TNI, ông Hadi Tjahjanto đã tham dự lễ khánh thành một đơn vị quân sự tổng hợp mới của TNI tại khu vực Biển Bắc Natuna mà theo vị tư lệnh này đây là một bước để tăng hiệu quả răn đe của Indonesia trước các mối đe dọa.

Xét ở góc độ thực tế nhất, có nhiều nguyên nhân đằng sau việc thành lập đơn vị này, trong đó phải kể đến nguyên nhân TNI đang dư thừa quân số, thành lập đơn vị mới là một trong những việc làm nhằm giải quyết vấn đề quân số dư thừa.

Tuy nhiên, cũng không thể không đề cập đến việc Indonesia toan tính phòng thủ trước các mối đe dọa trên Biển Đông. Trong nhiệm kỳ hai này, chưa rõ liệu Tổng thống Jokowi có tiếp tục cam kết cải cách để thúc đẩy GMF hay không.

Hồi giữa tháng 5/2019, chính quyền của ông Jokowi đã đưa ra Kế hoạch xây dựng nền kinh tế Sharia (kinh tế Hồi giáo) giai đoạn 2019-2024, xây dựng các doanh nghiệp theo hướng dựa trên các đặc trưng của kinh tế Hồi giáo và tăng cường chuỗi cung ứng halal (tiêu chuẩn sản phẩm Hồi giáo), coi đây là một trong những động lực chính để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tất nhiên, không loại trừ khả năng Indonesia xây dựng kế hoạch tổng thể như vậy để bổ trợ cho việc việc thực hiện GMF.

Tuy nhiên, chính phủ mới cần phải chủ động hơn trong việc nhắc lại cam kết của mình đối với GMF, đặc biệt là trong bối cảnh nhiều người đang lo lắng cho rằng chính phủ sẽ tập trung quá nhiều vào các vấn đề liên quan đến tôn giáo và chính trị bản sắc. Những vấn đề này đã thống trị trong các cuộc bầu cử gần đây.

Trở lại năm 2014, khi ông Jokowi có bài phát biểu trong lễ nhậm chức trên chiếc thuyền phinisi, một chiếc thuyền truyền thống của Indonesia, ông nói rằng “đã đến lúc chúng ta phải khơi dậy tiềm năng biển của Indonesia để biến nó thành sức mạnh giúp đất nước vươn lên.”

Đây là một khẩu hiệu đầy tham vọng đã tồn tại rất lâu trong các bậc tiền bối Indonesia. Với lễ nhậm chức tổng thống nhiệm kỳ hai dự kiến diễn ra vào tháng 10 tới, dư luận luôn hy vọng và mong rằng Tổng thống Jokowi sẽ vẫn giữ đúng lời nói của mình./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục