Vì sao Đông Nam Á trở thành chiến trường trong cạnh tranh Mỹ-Trung?

Thế giới đang theo dõi xem ASEAN sẽ đóng vai trò như một cầu nối tiềm năng như thế nào trong các cuộc đối thoại ngoại giao cấp cao, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Mỹ.
Vì sao Đông Nam Á trở thành chiến trường trong cạnh tranh Mỹ-Trung? ảnh 1Ảnh minh họa. (Nguồn: global.chinadaily.com.cn)

Đông Nam Á đang ngày càng thu hút sự chú ý khi cạnh tranh giữa Trung Quốc và Mỹ nóng lên.

Các nhà phân tích nhận định khu vực rộng lớn và đa dạng với nhiều thị trường mới nổi này đang trở thành chiến trường địa-chính trị và kinh tế chủ yếu giữa hai cường quốc, nhưng tình huống này cũng có thể mang lại cơ hội cho sự hợp tác giữa Trung Quốc và Mỹ.

Dấu hiệu mới nhất về tầm quan trọng của khu vực Đông Nam Á là việc Tổng thống Indonesia Joko Widodo có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Trung Quốc vào ngày 25/7.

Đây là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của một lãnh đạo nước ngoài kể từ Thế vận hội mùa Đông Bắc Kinh vào tháng Hai.

[Trung Quốc tái khẳng định ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN]

Trong hai ngày ở thăm Bắc Kinh, Tổng thống Widodo đã gặp Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường.

Chủ tịch Tập Cận Bình khẳng định các cuộc gặp này "nhấn mạnh tầm quan trọng mà hai nước đã đặt vào mối quan hệ song phương."

Indonesia và Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) là những nền tảng quan trọng trong chính sách ngoại giao khu vực của Trung Quốc.

Nằm trên tuyến đường thủy chiến lược nối Đông Á với Trung Đông và châu Phi, ASEAN hiện là nền kinh tế lớn thứ ba ở châu Á và lớn thứ năm trên thế giới.

Dân số 700 triệu người và các chính sách hướng ngoại đang mang đến cho khu vực này tiềm năng phát triển vượt bậc.

Năm nay, Đông Nam Á sẽ trở nên nổi bật hơn khi tổ chức ba sự kiện quốc tế lớn, gồm: Hội nghị Cấp cao ASEAN ở Campuchia, Hội nghị thượng đỉnh Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) ở Indonesia và Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) ở Thái Lan.

Thế giới đang theo dõi xem ASEAN sẽ đóng vai trò như một cầu nối tiềm năng như thế nào trong các cuộc đối thoại ngoại giao cấp cao, đặc biệt là giữa Trung Quốc và Mỹ, trong bối cảnh căng thẳng địa-chính trị gia tăng và chiến dịch quân sự kéo dài của Nga ở Ukraine.

Chuyên gia Luo Yongkun, Phó Giám đốc Viện nghiên cứu Đông Nam Á và châu Đại dương thuộc Viện quan hệ quốc tế đương đại Trung Quốc ở Bắc Kinh, nói trong lúc đang phải đối mặt với nhiều khó khăn kinh tế do dịch viêm đường hô hấp cấp COVID-19 và chiến dịch quân sự của Nga ở Ukraine gây ra, các nước Đông Nam Á do Indonesia dẫn đầu không muốn dính dáng vào bất kỳ cuộc xung đột nào và đang lo ngại về bất cứ thất bại nào của các cơ chế hợp tác quốc tế đa phương.

Theo ông Luo, tập trung vào phục hồi kinh tế và phát triển bền vững cùng với việc giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp ngoại giao đã trở thành đồng thuận chung giữa các nước châu Á, bao gồm Trung Quốc và ASEAN.

Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng cuộc đua giữa Trung Quốc và Mỹ nhằm tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam Á sẽ chỉ tăng thêm khi sự cạnh tranh giữa các siêu cường ngày càng nóng lên.

Ông Choi Shing Kwok, Giám đốc Viện Nghiên cứu ISEAS-Yusof Ishak thuộc Đại học Quốc gia Singapore, nhận định mặc dù hầu hết các quốc gia châu Á đều không muốn đứng về phía nào và luôn tìm cách duy trì mối quan hệ tốt đẹp với cả Trung Quốc và Mỹ, nhưng môi trường hòa bình và trật tự ở Đông Nam Á trong 30 năm qua đã đi đến hồi kết.

Theo vị chuyên gia này, các nước trong khu vực chắc chắn sẽ phải đối mặt với tình thế tiến thoái lưỡng nan về việc "chọn bên" trong các vấn đề khác nhau.

Mặt khác, các chuyên gia cho rằng khi Trung Quốc và Mỹ chạy đua để can dự vào khu vực này thông qua hợp tác kinh tế và quan hệ ngoại giao, có thể có cơ hội cho sự hợp tác giữa hai siêu cường này ở Đông Nam Á.

Ông Kishore Mahbubani, Hiệu trưởng Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu tại Đại học Quốc gia Singapore, cho biết, Trung Quốc và Mỹ có thể chung tay giải quyết những thách thức chính trị phức tạp, chẳng hạn như cùng thúc đẩy giải pháp cho tình trạng hỗn loạn chính trị ở Myanmar. Những nỗ lực như vậy có thể giúp xây dựng lòng tin và đặt nền tảng cho sự hợp tác hơn nữa giữa hai bên.

Tăng cường quan hệ đối tác

Chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng thống Widodo thu hút chú ý bởi vì, đây là chuyến thăm hiếm hoi của một lãnh đạo nước ngoài tới Trung Quốc kể từ sau đại dịch và là cuộc gặp ở cấp cao nhất giữa hai nước đang phát triển chủ chốt. Trung Quốc là điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến công du ba nước châu Á của ông Widodo.

Chuyến thăm của Tổng thống Widodo đã kết thúc với một loạt cam kết hợp tác.

Hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác trong việc nghiên cứu và phát triển vaccine và gen, trong đó Trung Quốc cam kết sẽ "tiếp tục hỗ trợ đầy đủ" cho Indonesia trong việc xây dựng một trung tâm sản xuất vaccine mang tầm khu vực.

Vì sao Đông Nam Á trở thành chiến trường trong cạnh tranh Mỹ-Trung? ảnh 2 Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) và Tổng thống Indonesia Joko Widodo. (Nguồn: Reuters)

Lãnh đạo hai nước cho biết họ cam kết đẩy nhanh việc nối lại các chương trình trao đổi giáo dục và du lịch, bao gồm việc tăng số lượng các chuyến bay trực tiếp giữa hai nước.

Bên cạnh đó, Trung Quốc cam kết tham gia vào kế hoạch xây dựng thủ đô mới của Indonesia mà Tổng thống Widodo đang thúc đẩy và hỗ trợ xây dựng cái gọi là khu công nghiệp xanh đầu tiên của nước này ở Tanah Kuning. Hai bên đã ký các thỏa thuận hợp tác về phát triển xanh, trao đổi thông tin, an ninh mạng và phát triển đại dương.

Quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia ngày càng sâu sắc kể từ khi ông Widodo nhậm chức vào năm 2014, tập trung vào thương mại và kinh tế.

Theo số liệu của Hải quan Trung Quốc, Trung Quốc đã là đối tác thương mại lớn nhất của Indonesia trong 9 năm liên tiếp, với tốc độ tăng trưởng về khối lượng thương mại lên tới 58,4% trong năm 2021 (so với năm 2020). Vốn đầu tư của Trung Quốc vào Indonesia đạt 3,2 tỷ USD vào năm ngoái.

Việc Tổng thống Widodo thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng trong nước cũng tạo ra nhiều cơ hội cho hai nước tăng cường hợp tác theo sáng kiến "Vành đai và Con đường" của Trung Quốc.

Tuyến đường sắt cao tốc đầu tiên của Indonesia nối thủ đô Jakarta và thành phố Bandung sử dụng công nghệ của Trung Quốc đang được xây dựng trong sáu năm và dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2023.

Bên cạnh đó, hai nước cũng tham gia vào một số dự án trong khuôn khổ Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP).

Chuyên gia Luo nhận định chuyến thăm Bắc Kinh của Tổng thống Widodo đã nhấn mạnh hơn nữa các nỗ lực của Indonesia nhằm tăng cường quan hệ với các nền kinh tế chủ chốt như Trung Quốc nhằm đảm bảo có thêm sự hỗ trợ trong bối cảnh môi trường địa-chính trị ngày càng phức tạp.

Theo chuyên gia Luo, Indonesia - nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á - là đối tác quan trọng của Trung Quốc trong việc mở rộng ngoại giao với toàn khu vực. Việc quan hệ giữa Trung Quốc và Indonesia ngày càng trở nên sâu sắc sẽ dẫn đến sự hợp tác giữa Trung Quốc và tất cả các nước thành viên ASEAN.

Chạy đua để có ảnh hưởng

Đằng sau sự hợp tác ngày càng mở rộng giữa Trung Quốc và Indonesia là vị trí chiến lược ngày càng nổi bật của Đông Nam Á và sự cạnh tranh gay gắt giữa Trung Quốc và Mỹ trong việc tạo dựng ảnh hưởng ở khu vực này.

Trong những tháng gần đây, chính quyền Tổng thống Joe Biden đang tìm cách khẳng định lại ảnh hưởng của Mỹ ở châu Á.

Vào tháng 7/2021, ông Kurt Campbell, Điều phối viên Mỹ về các vấn đề Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương trong Hội đồng An ninh Quốc gia, khẳng định Mỹ cần tăng cường can dự vào Đông Nam Á để giúp cho chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của mình trở nên hiệu quả hơn.

Kể từ nửa cuối năm 2021, các quan chức cấp cao của Mỹ, trong đó có bao gồm Phó Tổng thống Kamala Harris, Ngoại trưởng Antony Blinken và Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin, đã có một loạt chuyến thăm tới Đông Nam Á.

Vào tháng 5/2022, Mỹ đã tổ chức Hội nghị thượng đỉnh Mỹ-ASEAN đầu tiên tại Washington, nơi Tổng thống Joe Biden khẳng định quan hệ giữa Mỹ và ASEAN đã bước vào "một kỷ nguyên mới."

Trong lúc Washington tăng cường các nỗ lực ngoại giao, các tương tác cấp cao giữa Trung Quốc và ASEAN cũng tăng lên.

Vào giữa tháng Bảy, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đã tiến hành cuộc vận động ngoại giao chớp nhoáng kéo dài hai tuần trên khắp Đông Nam Á như một phần trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm đưa ra một giải pháp thay thế cho chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương của Mỹ.

Trong chuyến thăm Nhật Bản vào tháng 5/2022, Tổng thống Biden đã khởi động Khuôn khổ Kinh tế Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương vì thịnh vượng (IPEF).

Với việc có tới 7 trong số 13 thành viên sáng lập IPEF là các nước thành viên ASEAN, khuôn khổ này được cho là một biện pháp để thách thức RCEP do Trung Quốc dẫn đầu.

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia đã đặt câu hỏi về sức hấp dẫn của IPEF đối với các nước Đông Nam Á trong bối cảnh nó không đề cập tới bất kỳ cam kết nào nhằm giảm bớt các rào cản thương mại.

Ngược lại, RECP cam kết rằng thuế quan đối với hơn 90% thương mại hàng hóa giữa 15 quốc gia thành viên sẽ giảm dần về 0 trong vòng 10 năm tới.

Do IPEF vẫn hầu như chỉ là một khái niệm và đang chờ các cuộc đàm phán tiếp theo nên một số chuyên gia cho rằng khuôn khổ này sẽ không làm thay đổi nhiều sự cân bằng giữa Mỹ và Trung Quốc ở Đông Nam Á.

Chuyên gia Qian Feng, nghiên cứu viên tại Viện Chiến lược Quốc gia tại Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, nhận định do những kìm hãm ở chính trường trong nước nên chính quyền của ông Biden không thể đưa ra nhiều ưu đãi cụ thể ở Đông Nam Á.

Một cố vấn của Chính phủ Indonesia cho biết các ưu tiên trong chiến lược của Mỹ ở Đông Nam Á là an ninh, chính trị và phát triển kinh tế, trong khi đó các ưu tiên của Trung Quốc đều tập trung vào tăng trưởng kinh tế, phù hợp với nhu cầu của các nước trong khu vực này.

Hầu hết các quốc gia trong khu vực coi Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của họ. Năm 2021, trao đổi thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 878,2 tỷ USD, gấp đôi trao đổi thương mại giữa Mỹ và ASEAN.

Kể từ năm 2009 đến nay, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của ASEAN, và vào năm 2020, ASEAN đã vượt qua Liên minh châu Âu (EU) để trở thành đối tác thương mại hàng đầu của Trung Quốc.

Trong những năm qua, Trung Quốc và các nước ASEAN đã mở rộng khả năng tiếp cận thị trường thông qua nhiều hiệp định thương mại song phương và đa phương, đồng thời hợp tác sâu rộng trong các lĩnh vực thương mại điện tử, kinh tế kỹ thuật số và phát triển cơ sở hạ tầng theo sáng kiến "Vành đai và Con đường" (BRI).

RCEP dự kiến sẽ thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ hợp tác Trung Quốc-ASEAN.

Theo Viện Kinh tế Quốc tế Peterson ở Washington, các quốc gia thành viên RCEP dự kiến sẽ ghi nhận mức tăng trưởng 10,4% về tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 2025 và mức tăng 2,6% trong đầu tư ra nước ngoài.

Đến năm 2030, các nước thành viên RCEP dự kiến sẽ đạt mức tăng kim ngạch xuất khẩu ròng là 519 tỷ USD và mức tăng thu nhập ròng là 186 tỷ USD.

Các chuyên gia cho rằng để khôi phục ảnh hưởng ở Đông Nam Á, chính quyền của ông Biden có thể tận dụng liên minh khu vực của mình như nhóm Bộ tứ (Quad) để tăng cường can dự kinh tế và tăng cường hợp tác an ninh trong khu vực.

Nhiều người cũng cho biết họ mong đợi Tổng thống Biden sẽ thăm khu vực này vào cuối năm nay và triển khai một khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với ASEAN tại Hội nghị Cấp cao ASEAN ở Campuchia vào tháng 11/2022.

Trong khi đó, Trung Quốc đang tiến tới mở rộng hợp tác với ASEAN sang nhiều lĩnh vực khác, bao gồm chống khủng bố, biến đổi khí hậu, an ninh mạng và thực thi pháp luật xuyên biên giới.

Tiềm năng lớn

Quy mô thị trường khổng lồ, dân số tương đối trẻ và các chính sách hướng ngoại đã hỗ trợ cho sự bùng nổ về kinh tế của Đông Nam Á. Nhưng nền văn hóa đa dạng và trình độ phát triển không đồng đều đang đặt ra những thách thức cho sự phát triển của khu vực này trong tương lai.

Trong giai đoạn 2011-2020, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế bình quân của các nước ASEAN là 4,4%/năm. Mặc dù dịch COVID-19 đã gây gián đoạn cho hoạt động kinh tế và khiến ASEAN bị tăng trưởng âm 3,3% trong năm 2020, nhưng các nền kinh tế lớn trong khu vực đã bắt đầu phục hồi mạnh mẽ vào năm ngoái khi các biện pháp kiểm soát dịch COVID-19 được nới lỏng.

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), ASEAN sẽ trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới trong vòng 10 năm tới.

Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo đến năm 2030, 70% dân số ASEAN sẽ trở thành tầng lớp trung lưu, mang lại cơ hội kinh doanh khổng lồ và tạo ra thị trường tiêu dùng khoảng 4.000 tỷ USD trong thập kỷ tới.

Nền kinh tế kỹ thuật số và ngành công nghiệp bán dẫn được kỳ vọng sẽ là động lực tăng trưởng kinh tế của khu vực này.

Trong một báo cáo chung công bố gần đây, hãng công nghệ Google, tập đoàn Temasek của Singapore và công ty tư vấn Bain & Co. ước tính rằng khu vực này đang trên con đường trở thành nền kinh tế kỹ thuật số trị giá 1.000 tỷ USD vào năm 2030.

Đông Nam Á đang bước vào "thập kỷ kỹ thuật số" được thúc đẩy bởi một cơ sở người tiêu dùng và công ty thương mại ngày càng lớn, thương mại điện tử và nhu cầu thực phẩm đang tăng tốc.

Đông Nam Á cũng là một điểm đến chính cho ngành sản xuất chất bán dẫn toàn cầu khi ngành công nghiệp này chuyển hướng sang các khu vực có chi phí thấp hơn.

Khu vực này đã đóng một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp sản xuất chip toàn cầu, chiếm gần 30% hoạt động thử nghiệm và đóng gói chất bán dẫn.

Khi ngành công nghiệp bán dẫn và điện tử trong nước phát triển, các hãng sản xuất chip khổng lồ toàn cầu đang tăng gấp đôi đầu tư vào các nước Đông Nam Á như Singapore, Malaysia và Việt Nam.

Có rất nhiều cơ hội đầu tư vào lĩnh vực logistics thương mại điện tử, dịch vụ tài chính kỹ thuật số và xây dựng cơ sở hạ tầng ở Đông Nam Á.

Trong thời kỳ đại dịch, nhiều quốc gia ở Đông Nam Á đã nhận ra tầm quan trọng của nền kinh tế kỹ thuật số như thanh toán di động.

Chuyên gia Luo nhận định Trung Quốc và Đông Nam Á có thể tăng cường hợp tác trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật số và các lĩnh vực liên quan khác.

Ông Chong Ja Ian, Phó Giáo sư Khoa khoa học chính trị tại Đại học Quốc gia Singapore, cho rằng thách thức lớn nhất mà ASEAN đang phải đối mặt là sự phối hợp trong nội bộ khối trong bối cảnh có sự đa dạng lớn giữa các nước thành viên.

Mặc dù với tư cách là một nền kinh tế, Đông Nam Á được coi là một thị trường thống nhất, nhưng sự phát triển kinh tế, ngôn ngữ và văn hóa, môi trường chính trị, hệ thống tài chính và tiền tệ ở các nước trong khu vực rất khác nhau.

Số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy năm 2021, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người của Singapore - quốc gia phát triển nhất Đông Nam Á - lên tới 72.000 USD, trong khi GDP bình quân đầu người của Campuchia chỉ là 1.591 USD, thấp hơn 45 lần so với Singapore.

Ông Terence Tai-Leung Chong, Giáo sư tại Đại học Trung Quốc Hong Kong, nói: "ASEAN thiếu các bộ máy tư pháp, lập pháp và hành pháp của Liên minh châu Âu (EU) và không phải là một thực thể chính trị."

Khối này cũng thiếu một nhà lãnh đạo có quyền lực. Trong hoàn cảnh đó, ASEAN sẽ khó có thể hình thành một cộng đồng như EU và đạt được sự phát triển đột phá./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục