Vì sao không tổ chức HĐND huyện, quận, phường?

Vietnam+ giới thiệu bài viết của tiến sỹ Văn Tất Thu - Thứ trưởng Bộ Nội vụ về cơ sở của việc không tổ chức HĐND huyện, quận, phường.
Sau hơn 1 năm thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường, kết quả thu được rất khả quan, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.

Tuy nhiên, vẫn còn một số ý kiến băn khoăn cho rằng chưa có cơ sở lý luận và thực tiễn đầy đủ để mở rộng thực hiện không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường trên toàn quốc.

Báo điện tử Vietnam+ xin trân trọng giới thiệu bài viết của tiến sỹ Văn Tất Thu - Thứ trưởng Bộ Nội vụ về "Cơ sở lý luận và thực tiễn không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường" để bạn đọc tham khảo.

1. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân.

Sau cách mạng tháng Tám thành công, vấn đề quan trọng hàng đầu đặt ra cho Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải khẩn trương nghiên cứu ban hành văn bản về tổ chức chính quyền địa phương.

Sau một thời gian chuẩn bị khẩn trương Ban nghiên cứu Tổ chức chính quyền địa phương do Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp làm trưởng ban đã trình để Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945 về tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính, Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã, thành phố. Sắc lệnh số 63 quy định cụ thể về tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp (xã, huyện, tỉnh kỳ).

Sắc lệnh quy định “Hội đồng Nhân dân do nhân dân bầu ra theo lối phổ thông và trực tiếp đầu phiếu và là cơ quan đại diện cho nhân dân. Ủy ban hành chính do Hội đồng Nhân dân bầu ra và là cơ quan hành chính vừa thay mặt cho nhân dân vừa đại diện cho Chính phủ.”

Sắc lệnh số 77 về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã thành phố “Quy định chi tiết về cách tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Hội đồng Nhân dân và Ủy ban hành chính thành phố, cách tổ chức, quyền hạn, cách làm việc của Ủy ban hành chính khu phố nơi không tổ chức Hội đồng Nhân dân. Tại mỗi thành phố sẽ có 3 cơ quan là Hội đồng Nhân dân thành phố, Ủy ban hành chính thành phố, Ủy ban hành chính khu phố.”

Có thể nói, Sắc lệnh số 63 và 77 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành là văn bản pháp lý đầu tiên về tổ chức chính quyền nhân dân ở Việt Nam. Các quy định trong Sắc lệnh số 63 và 77 về tổ chức chính quyền nhân dân ở nông thôn và ở các thành phố còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay.

Một vấn đề hết sức quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước dân chủ nhân dân, Nhà nước của dân là Nhà nước bộ máy chính quyền Nhà nước, chính quyền của nhân dân được lập ra phải bằng con đường bầu cử trực tiếp hoặc gián tiếp, phải thực hiện quyền dân chủ của nhân dân bằng con đường lập hiến, nghĩa là quyền dân chủ của nhân dân phải được quy định trong Hiến pháp.

Chính bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo trình Quốc hội thông qua đã toát lên đầy đủ tư tưởng của Người về xây dựng chính quyền và các thiết chế dân chủ nhân dân. Tư tưởng chủ đạo của Hiến pháp năm 1946 là “Đảm bảo các quyền tự do, dân chủ;” thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân;” “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam,” “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang nhau về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa, đều được tham gia chính quyền và công cuộc Kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình.”

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.”

Đồng thời, theo Người nhân dân có quyền tự do ứng cử và bầu cử, nhân dân có quyền lựa chọn bầu ra những người thay mình thực thi quyền lực Nhà nước thì nhân dân cũng có quyền thay đổi, hoặc bãi miễn những người không làm tròn bổn phận, nhiệm vụ mà nhân dân giao phó, nhân dân ủy thác “nhân dân có quyền bãi miễn Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng Nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng.”

Nhân dân có quyền bãi miễn, thay đổi Chính phủ nếu Chính phủ đó làm hại đến nhân dân và bầu ra Chính phủ khác. Khi được bầu làm Chủ tịch Chính phủ, Người nói “Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân.”

Người khẳng định: “Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy nếu không làm được việc cho dân thì dân không cần đến nữa;” “Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” không có nghĩa phải xây dựng một chính quyền có bộ máy đồ sộ với những người đại biểu đại diện tầng tầng lớp lớp mà phải xây dựng một chính quyền gần dân, sát dân với bộ máy gọn nhẹ hoạt động có hiệu lực, hiệu quả với đội ngũ công chức tinh thông cần mẫn là công bộc của nhân dân, tiêu tốn ít tiền của nhân dân làm được nhiều việc cho dân, phục vụ đắc lực nhân dân.

Hội đồng Nhân dân ở đâu hoạt động hình thức, chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả, không làm được nhiều việc cho dân thì cũng phải xem xét tinh giản để lợi cho dân.

Ý tưởng “thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” được thể hiện trong 2 sắc lệnh nói trên và được khẳng định lại trong Hiến pháp 1946 bằng các quy định về tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân, cụ thể như “ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng Nhân dân do đầu phiếu, trực tiếp, phổ thông và trực tiếp bầu ra. Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính.

Ở bộ và huyện chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính Bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra, Ủy ban hành chính Huyện do Hội đồng các xã bầu ra. Hội đồng Nhân dân quyết nghị những vấn đề thuộc về địa phương mình, những Nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của cấp trên. Ủy ban hành chính có trách nhiệm thi hành các mệnh lệnh của cấp trên; thi hành các Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân địa phương mình sau khi được cấp trên chuẩn y; chỉ huy công việc hành chính trong địa phương.”

Có thể nói các quy định trong sắc lệnh 63 và 77 và trong Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban soạn thảo về tổ chức chính quyền ở nông thôn và ở các thành phố còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay, hoàn toàn phù hợp với chủ trương không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở huyện, quận phường của Đảng và Nhà nước ta hiện nay và việc thực hiện không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân.

2. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính.

Lý do không bỏ Hội đồng Nhân dân tỉnh là hiện nay chính quyền địa phương ở Việt Nam có 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Ranh giới giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương được xác định từ cấp tỉnh. Mọi sự điều hành của trung ương đến cấp huyện, cấp xã đều phải thông qua cấp tỉnh. Trung ương không thể bỏ qua cấp tỉnh để chỉ đạo điều hành công việc trực tiếp xuống cấp huyện và cấp xã. Các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương là nơi bắt đầu của chế độ tự quản địa phương.

Việc phân bổ Ngân sách Nhà nước cho chính quyền địa phương và việc phân cấp thẩm quyền, trách nhiệm của chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trước tiên và trực tiếp cho chính quyền cấp tỉnh. Những vấn đề quan trọng và những vấn đề tự chủ chung của một tỉnh được xác định và giải quyết ở Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, Hội đồng Nhân dân là cơ quan đại diện cho nhân dân cả tỉnh. Do đó, sự tồn tại chính quyền cấp tỉnh (Hội đồng Nhân dân) là sự cần thiết tất yếu.

Hiện nay Hội đồng Nhân dân tỉnh, chính quyền tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương còn những hạn chế bất cập thì phải kiện toàn, hoàn thiện klhông nên tinh giản hay cắt bỏ.

Lý do không tổ chức Hội đồng Nhân dân cấp huyện là trong ba cấp hành chính địa phương ở Việt Nam cấp huyện là cấp hành chính trung gian, được bao hàm trong cấp hành chính tỉnh. Trong cấp hành chính này hình thành nên 1 cấp chính quyền không đầy đủ có lúc có Hội đồng Nhân dân, có lúc không có Hội đồng Nhân dân chỉ có Ủy ban hành chính. Sự thực cấp chính quyền không đầy đủ này được bao hàm trong cấp chính quyền tỉnh.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân cấp huyện là tinh giản cơ quan đại diện bao hàm trong chính quyền cấp tỉnh sẽ đảm bảo cho bộ máy hành chính nhà nước thông suốt hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn, nhân dân được tiếp xúc trực tiếp với chính quyền (Ủy ban Nhân dân), được chính quyền trực tiếp nghe các ý kiến phản ánh tâm tư, nguyện vọng của mình và được chính quyền trực tiếp giải quyết các vấn đề bức xúc của mình. Đồng thời được trực tiếp đóng góp ý kiến của mình cho việc xây dựng chính quyền. Được Ủy ban Nhân dân trực tiếp báo cáo hoạt động của Ủy ban Nhân dân, có thông tin đầy đủ để trực tiếp giám sát các hoạt động của Ủy ban Nhân dân.

Có thể nói không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở cấp huyện là một giải pháp quan trọng chuyển từ hình thức dân chủ đại diện sang hình thức dân chủ trực tiếp để phát huy quyền làm chủ và quyền dân chủ trực tiếp của người dân đồng thời đề cao trách nhiệm của chính quyền, của Ủy ban Nhân dân trước người dân.

Lý do không bỏ Hội đồng Nhân dân xã là Hội đồng Nhân dân xã được tổ chức ở các đơn vị hành chính lãnh thổ tự nhiên, gắn kết chặt chẽ với dân cư ở cơ sở, là cầu nối giữa nhà nước với nhân dân, là nơi nhân dân thực hiện quyền làm chủ và tự quản của mình. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đều do chính quyền xã tổ chức triển khai thực hiện đến từng người dân.

Hội đồng Nhân dân xã hiện nay còn nhiều yếu kém, bất cập, hạn chế thì phải tăng cường kiện toàn không thể tinh giản hay cắt bỏ.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở quận, phường để tổ chức chính quyền nhân dân theo mô hình chính quyền đô thị.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở quận, phường là thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt Nam trên cơ sở phân biệt rõ đặc điểm đặc thù, sự khác nhau về chức năng nhiệm vụ, quản lý trên hai địa bàn đô thị và nông thôn để chọn mô hình tổ chức và cách thức điều hành, quản lý cho phù hợp.

Do đặc điểm, đặc thù, đặc trưng riêng và do yêu cầu, nhiệm vụ quản lý khác với địa bàn nông thôn đòi hỏi chính quyền đô thị phải hết sức tập trung, hết sức thống nhất, hết sức năng động và nhanh nhạy trong điều hành, giải quyết công việc, giải quyết các bức xúc của người dân. Do đó ở các đô thị (các thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố thị xã thuộc tỉnh) chỉ tổ chức một cấp chính quyền gồm có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân còn ở các quận, phường chỉ tổ chức Ủy ban Nhân dân. Đây là sự kế thừa có chọn lọc những quy định về tổ chức chính quyền nhân dân ở các thị xã, thành phố nêu trong Sắc lệnh số 77 ngày 21/12/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành như đã nêu ở trên. Đồng thời là sự vận dụng hợp lý kinh nghiệm tổ chức chính quyền đô thị của các nước trên thế giới vào Việt Nam trong quá trình mở cửa hội nhập.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của chính quyền địa phương để chính quyền địa phương phục vụ tốt hơn, có trách nhiệm hơn với người dân địa phương. Đây là chủ trương đúng và sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình cải cách, kiện toàn bộ máy nhà nước, kiện toàn bộ máy chính quyền địa phương, chính quyền của nhân dân.

Trên cơ sở đó xem xét cơ quan, tổ chức hay bộ phận cấu thành nào của bộ máy cần tinh giản hay cần phải hoàn thiện. Tinh giản hay hoàn thiện đều là các giải pháp cần thiết trong kiện toàn tổ chức bộ máy, lựa chọn giải pháp nào đều phải tính toán, cân nhắc cẩn trọng và phải dựa trên những nguyên tắc, cơ sở khoa học. Cơ quan, tổ chức hay bộ phận nào của bộ máy cần thiết và sự tồn tại của chúng là tất yếu khách quan, thiếu chúng bộ máy sẽ không hoạt động được thì tuyệt nhiên không được tinh giản hay cắt bỏ. Nếu chúng yếu và còn hạn chế, bất cập thì phải hoàn thiện, còn cơ quan, tổ chức hay bộ phận nào của bộ máy nếu thấy không cần thiết, tinh giản hay cắt bỏ đi không ảnh hưởng gì đến hoạt động và chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy thì mạnh dạn tinh giản hay cắt bỏ. Nếu không chúng sẽ trở thành vật cản gây ách tắc cho hoạt động của bộ máy, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy và gây tốn kém lãng phí không cần thiết.

Từ quan điểm nhận thức như vậy, trong kiện toàn tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt Nam hiện nay như trên đã phân tích thì việc không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là cần thiết và việc kiện toàn tổ chức và hoạt động của Hội đồng Nhân dân tỉnh và xã là bắt buộc, là sự tính toán cân nhắc có cơ sở khoa học của Trung ương Đảng và sự tính toán cân nhắc cẩn trọng đó không ngoài mục đích đảm bảo cho chính quyền của địa phương ở Việt Nam thực sự là chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

3. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân ở huyện, quận, phường tuyệt nhiên không làm mất đi quyền đại diện, quyền dân chủ của nhân dân.

Ở Việt Nam hiện nay có nhiều đại biểu đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Hiện nay cả nước có 493 đại biểu của Quốc hội; có 306.262 đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp (cấp tỉnh: 3.852 đại biểu; cấp huyện 23.450 đại biểu; cấp xã có 278.960 đại biểu). Mỗi người dân tối thiểu có 4 người đại biểu đại diện cho mình, đó là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp huyện, đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp xã.

Thế nhưng vẫn còn nhiều vấn đề nhân dân bức xúc, nhân dân đòi hỏi, nhiều đơn thư kiến nghị của nhân dân chưa được giải quyết kịp thời. Khi người dân lâm sự không phải tất các các đại biểu đó đều đến bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Do có nhiều đại biểu nhân dân nên nhân dân không biết rõ được từng đại biểu đại diện cho mình đến đâu, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp và chịu trách nhiệm trước mình như thế nào? Do có nhiều đại biểu đại diện cho nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn chồng chéo không rõ ràng nên dẫn đến tình trạng cùng một lúc có nhiều cơ quan giám sát, nhiều đại biểu giám sát, cùng một việc nhiều người nghe, nhiều người nói mà hiệu quả giải quyết lại thấp.

Trách nhiệm và quyền hạn của các đại biểu ghi trong luật quá đầy đủ, nhưng điều kiện trình độ và năng lực của đại biểu để thực hiện chưa tương xứng, dẫn đến quyền và lợi ích của người dân được các đại biểu đại diện cho mình bảo vệ có mức độ. Đại biểu đại diện cho dân nhiều nhưng chủ yếu là kiêm nhiệm. Tiếp xúc với cử tri theo kiểu xuân thu nhiệm kỳ và chủ yếu tiếp xúc với các “đại cử tri chuyên trách.”

Sau mỗi kỳ họp đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri, đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố tiếp xúc cử tri, đại biểu Hội đồng Nhân dân huyện, quận, thành phố thị xã thuộc tỉnh tiếp xúc cử tri, đại biểu Hội đồng Nhân dân xã, phường, thị trấn tiếp xúc cử tri.

Cùng một vấn đề bức xúc ở cơ sở bốn đại biểu đại diện cho dân đêu được nghe, đều được phản ánh, đều được chuyển cho Ủy ban Nhân dân các cấp, nhưng vụ việc, bức xúc của nhân dân chỉ có thể được giải quyết khi Ủy ban Nhân dân các cấp vào cuộc.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường cũng không sợ người dân mất quyền dân chủ, mất người đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân. Người dân thành phố vẫn còn ít nhất 2 đại biểu là đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng Nhân dân Thành phố. Người dân ở nông thôn còn ít nhất 3 người đại biểu là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh và đại biểu Hội đồng Nhân dân cấp xã đại diện cho mình, giám sát và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là tinh giản một bộ phận tổ chức trong bộ máy chính quyền địa phương tuyệt nhiên không làm mất đi quyền dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, không làm yếu đi chính quyền của nhân dân, ngược lại làm cho chính quyền mạnh hơn, bộ máy chính quyền gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn.

4. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường vẫn bảo đảm việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước trên địa bàn.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường ai, cơ quan nào giám sát đối với hoạt động của Ủy ban Nhân dân và các cơ quan nhà nước trên địa bàn?

Theo Luật “Hội đồng Nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của thường trực Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các Nghị quyết của Hội đồng Nhân dân; giám việc tuân thủ Pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân địa phương.”

Hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân được thực hiện thường xuyên gắn kết với việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn do pháp luật quy định. Giám sát của Hội đồng Nhân dân bao gồm: giám sát của Hội đồng Nhân dân tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng Nhân dân, giám sát của các ban của Hội đồng Nhân dân, giám sát của đại biểu Hội đồng Nhân dân.

Luật quy định đầy đủ thẩm quyền giám sát của Hội đồng Nhân dân, nhưng thực tế với cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, trình độ của thường trực Hội đồng Nhân dân khó có thể hoàn thành được nhiệm vụ, thẩm quyền giám sát của mình.

Để giám sát có kết quả đòi hỏi cơ quan thực hiện quyền giám sát phải có đầy đủ trình độ, năng lực, ngoài việc nắm chắc các quy định của pháp luật còn phải am hiểu tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật, công nghệ của lĩnh vực, hoạt động mình giám sát, chưa kể các quy định và cơ chế hiện hành của hệ thống chính trị ở Việt Nam chưa trao cho Hội đồng Nhân dân, thường trực của Hội đồng Nhân dân thực quyền kiểm tra giám sát. Còn giám sát chung, giám sát các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân, và của công dân trong việc tuân thủ pháp luật cũng rất hình thức, làm sao thường trực Hội đồng Nhân dân với cơ cấu như luật định với thời gian và các nguồn lực có hạn có thể thực hiện đầy đủ thẩm quyền giám sát của mình.

Đồng thời, cũng phải có cơ chế, các quy định cụ thể thì thường trực Hội đồng Nhân dân mới có thể giám sát được hoạt động của các cơ quan nhà nước, đơn vị kinh tế, đơn vị vũ trang trên địa bàn. Vì giám sát của Hội đồng Nhân dân và giám sát của Thường trực Ủy ban Nhân dân khác với giám sát tối cao của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ngoài ra, cũng phải tính đến kết quả, hiệu quả của việc giám sát, đó là thẩm quyền giải quyết các vấn đề khi hoạt động giám sát phát hiện ra, phải trao cho thường trực Hội đồng Nhân dân có đẩy đủ thẩm quyền kết luận và xử lý các sai trái, vi phạm pháp luật thì việc giám sát mới thực sự có hiệu quả. Giám sát phát hiện ra vi phạm chuyển cho các cơ quan chức năng khác xử lý, các cơ quan chức không xử lý lại kính chuyển hoặc xin ý kiến, hoặc chuyển cho Ủy ban Nhân dân mà không đeo bám, không quyết tâm xử lý đến cùng, cũng chỉ là hình thức.

Theo quy định của Luật, toàn bộ hoạt động giám sát được giao cho Hội đồng Nhân dân thường trực Hội đồng Nhân dân, các ban của Hội đồng Nhân dân nhưng trên thực tế trực tiếp tổ chức giám sát lại thuộc các ban của Hội đồng Nhân dân, mà các ban này chỉ là các cơ quan giúp việc của Hội đồng Nhân dân, thường trực Hội đồng Nhân dân.

Với địa vị pháp lý như vậy, làm sao các ban của Hội đồng Nhân dân có thể thực hiện được đầy đủ các hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân. Đồng thời, các ban cũng không có đủ thẩm quyền , nguồn lực và khả năng thực hiện các quy định của Luật về thực hiện quyền giám sát.

Ngoài ra, chưa kể đến các công cụ, phương tiện phục vụ cho hoạt động giám sát của Hội đồng Nhân dân, thường trực Hội đồng Nhân dân, các ban của Hội đồng Nhân dân cũng không được trang bị đầy đủ. Hoạt động giám sát của đại biểu Hội đồng Nhân dân cũng tương tự như vậy, do trình độ, năng lực, cơ chế và điều kiện thời gian, vật chất để thực hiện nhiệm vụ giám sát của người đại biểu nhân dân cũng không đầy đủ.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường thẩm quyền, nhiệm vụ và hoạt động giám sát vẫn được đảm bảo bằng cách tăng cường thẩm quyền giám sát cho đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội, cho Hội đồng Nhân dân và đại biểu Hội đồng Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, giám sát nhân dân của Mặt trận; của các đoàn thể nhân dân và giám sát trực tiếp của người dân, giám sát của các phóng viên báo, đài, tạp chí và đặc là giám sát, kiểm tra của các cấp ủy, đồng thời tăng cường thanh tra, kiểm tra của các cơ quan hành chính cấp trên, của các cơ quan kiểm toán độc lập...

5. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường.

Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vài trò của chính quyền địa phương, của Hội đồng Nhân dân các cấp cũng phải thay đổi, đổi mới cho phù hợp. Hội đồng Nhân dân không thể bàn và tự quyết mọi vấn đề như thời kỳ bao cấp. Nhiệm vụ quản lý nhà nước về kinh tế ở tầm vĩ mô thuộc chính quyền trung ương. Các cấp chính quyền địa phương chủ yếu bàn và quyết các giải pháp chỉ đạo, thực hiện; chức năng hoạch định chính sách có mức độ và chủ yếu tập trung ở Hội đồng Nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện vai trò mờ nhạt. Xây dựng nền kinh tế thị trường yêu cầu phải tôn trọng các quy luật khách quan của thị trường, yêu cầu cần giảm thiểu sự can thiệp của chính quyền địa phương vào thị trường.

Nếu vẫn để tồn tại Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là để thêm tầng, nấc trung gian trong chỉ đạo điều hành, phát sinh thêm các thủ tục hành chính gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp, ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế thị trường.

Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là để tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

6. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường đáp ứng các yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, phù hợp với thời đại khoa học công nghệ phát triển.

Trong nhà nước pháp quyền mọi chủ trương, đường lối của Đảng về bảo đảm quyền dân chủ, quyền làm chủ, cũng như những quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp khác của người dân được nhà nước thể hóa thành pháp luật. Nhà nước quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống, kinh tế XH bằng pháp luật. Mọi người dân và nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước bình đẳng trước pháp luật, sống và làm việc theo pháp luật. Đó là giải pháp quan trọng và hữu hiệu nhất bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân.

Khi mọi người dân, mọi cán bộ công chức, viên chức nhà nước sống và làm việc theo pháp luật thì cũng không cần nhiều tổ chức, nhiều cơ quan đại diện giám sát, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, bộ máy quản lý nhà nước sẽ tinh giản, chức năng giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước sẽ giảm để chuyển giao cho các tổ chức xã hội. Đồng thời dân chủ trong xã hội, chuyển giao từ hình thức dân chủ gián tiếp, dân chủ đại diện sang dân chủ trực tiếp. Người dân trực tiếp lựa chọn và bầu các đại biểu và các cơ quan nhà nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình và trực tiếp giám sát mọi hoạt động của các đại biểu ở các cơ quan đại diện do mình bầu ra.

Vai trò của các cơ quan dân cử như Hội đồng Nhân dân các cấp cũng phải thay đổi để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền của dân do dân, vì dân.

Hơn thế nữa, khi khoa học công nghệ phát triển nhanh như vũ bão, nhất là công nghệ thông tin, các phương tiện thông tin đại chúng theo hướng hiện đại, hoạt động của các cơ quan nhà nước ngày càng công khai dân chủ, người dân có thể đối thoại trực tiếp với chính phủ, thủ tướng chính phủ, với chính quyền địa phương các cấp, có thể phản ánh mọi tâm tư, nguyện vọng và kiến nghị đề xuất của mình qua các phương tiện thông tin đại chúng: báo, đài truyền hình, đài phát thanh, báo điện tử, mạng Internet. Trao đổi, đối thoại, giao lưu trực tuyến với các cấp chính quyền. Qua phương tiện thông tin hiện đại. Trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển, hoạt động của các cơ quan nhà nước công khai dân chủ, chính quyền có trách nhiệm giải trình trước người dân không nhất thiết phải có nhiều cấp hội đồng, nhiều đại biểu Hội đồng Nhân dân như hiện nay.

Như vậy việc không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường là hoàn thoàn phù hợp với chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền với thời đại công khai dân chủ, khoa học công nghệ phát triển.

7. Không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường sẽ tinh giản bộ máy, biên chế, giảm các chi phí cho hoạt động của chính quyền địa phương.

Cả nước ta tính đến ngày 31/8/2010 có 11.869 đơn vị hành chính lãnh thổ, nghĩa là có tổng số 11.869 Hội đồng Nhân dân các cấp với tổng số 306.262 đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp.

Nếu không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường sẽ giảm tổng số 1.992 Hội đồng Nhân dân, ước tính giảm khoảng 58.231 đại biểu Hội đồng Nhân dân các cấp. Hàng năm Nhà nước cấp kinh phí bình quân cho mỗi Hội đồng Nhân dân huyện 350 triệu, Hội đồng Nhân dân quận 300 triệu, Hội đồng Nhân dân phường 50 triệu. Nếu không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường thì ước tính mỗi năm Nhà nước không phải chi khoảng 277.55 tỷ đồng, một khoản kinh phí khá lớn chưa kể kinh phí đầu tư xây dựng trụ sở, xăng xe, trả lương cho cán bộ, nhân viên phục vụ cho hoạt động của Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường. Như vậy, nếu không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường rõ ràng sẽ tinh giản được biên chế, tiết kiệm được nguồn kinh phí đáng kể chi từ ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên, chúng ta không dặt mục tiêu tinh giản bộ máy, biên chế và tiết kiệm chi tiêu lên hàng đầu, mục tiêu lớn nhất là đổi mới, tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, đảm bảo tính thông suốt, hiệu lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước, phục vụ đắc lực người dân và doanh nghiệp.

8. Kết quả thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường thời gian qua khẳng định chủ trương của Đảng và Nhà nước ta hoàn toàn đúng.

Sau hơn một năm làm điểm việc không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường theo Nghị quyết Trung ương 5 khóa X của Đảng và Nghị quyết 26 của Quốc hội ở 67 huyện, 32 quận, 483 phường của 10 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy “chủ trương thực hiện thí điểm theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) là đúng đắn, phù hợp được đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình ủng hộ. Thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường đã đạt được các mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ đề ra, tạo được một bước đột phá trong cải cách hoàn thiện bộ máy chính quyền địa phương, góp phần tổ chức hợp lý chính quyền địa phương, phân biệt rõ sự khác nhau giữa tổ chức chính quyền đô thị và nông thôn, đảm bảo tính thống nhất, thông suốt, hiệu lực và hiệu quả của bộ máy chính quyền nhà nước; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý điều hành của Ủy ban Nhân dân, đồng thời phát huy tính chủ động, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính, việc giám sát, kiểm tra đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước trên địa bàn quận, huyện, phường được tăng cường, quyền dân chủ của người dân vẫn được đảm bảo, quyền dân chủ trực tiếp của người dân được mở rộng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, kinh tế xã hội tiếp tục ổn định và phát triển, vai trò lãnh đạo của Đảng được phát huy và tăng cường.

Thực tiễn là chân lý, kết quả đạt được trong thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường một lần nữa khẳng định chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách, hoàn thiện và tổ chức hợp lý chính quyền địa phương ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước Pháp quyền của dân, do dân, vì dân, xây dựng nền kinh tế thị trường và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế thời gian qua là hoàn toàn đúng.

Từ những vấn đề lý luận và kết quả thực tiễn thực hiện thí điểm không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường nêu trên và theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khóa X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước, chúng tôi đề nghị Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương cho phép nghiên cứu sửa đổi các quy định trong Hiến pháp về tổ chức chính quyền địa phương theo hướng không tổ chức Hội đồng Nhân dân huyện, quận, phường tạo cơ sở pháp lý sửa đổi Luật Tổ chức Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân cũng như Luật Bầu cử Hội đồng Nhân dân để triển khai thực hiện không tổ chức Hội đồng Nhân dân trên phạm vi toàn quốc./.

Tiến sỹ Văn Tất Thu - Thứ trưởng Bộ Nội vụ

Tin cùng chuyên mục