Việt Nam đã tích cực triển khai các cam kết AEC

Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng khẳng định với vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã tích cực triển khai các cam kết Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Nhân kỷ niệm 15 năm ngày Việt Nam gia nhập ASEAN (28/7/1995-28/7/2010), Bộ trưởng Bộ Công Thương Vũ Huy Hoàng có bài viết quan trọng “Sự tham gia và đóng góp của Việt Nam trong Cộng đồng kinh tế ASEAN: Cộng đồng Kinh tế ASEAN - Ưu tiên của hội nhập kinh tế ASEAN."

Thông tấn xã Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết này.

ASEAN đang hướng đến khát vọng xây dựng một cộng đồng chung đoàn kết, năng động và thịnh vượng vào năm 2015. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), cùng với Cộng đồng Chính trị-An ninh ASEAN và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội ASEAN sẽ là 3 cấu phần chính của Cộng đồng ASEAN này.

Năm 2004, các nhà lãnh đạo ASEAN nhất trí xây dựng AEC vào năm 2020 dựa trên kế hoạch kết nối 12 lĩnh vực ưu tiên mà ASEAN đã có lợi thế cạnh tranh bao gồm nông nghiệp, gỗ và sản phẩm gỗ, dệt may, điện tử, caosu, ôtô, giày dép, du lịch, vận tải hàng không và logistics.

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 7, tháng 1/2007 tại Cebu, Philippines, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thông qua xây dựng Kế hoạch tổng thể và lộ trình chiến lược thực hiện AEC với các biện pháp chi tiết và một thể chế thực thi chặt chẽ, đồng thời quyết định đẩy nhanh mục tiêu hoàn thành AEC vào năm 2015. Đây được xem là cột mốc quan trọng nhất kể từ năm 2002 sau khi ASEAN hoàn thành cơ bản Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung để thực hiện Khu vực thương mại tự do ASEAN (CEPT/AFTA).

Theo kế hoạch, từ năm 2015, AEC sẽ là một thị trường chung, một không gian sản xuất thống nhất. Thị trường ấy sẽ phát huy lợi thế chung của khu vực ASEAN để từng bước xây dựng một khu vực năng động, có tính cạnh tranh cao trên thế giới, đem lại sự thịnh vượng chung cho nhân dân và các quốc gia ASEAN.

Hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề sẽ được tự do lưu chuyển trong ASEAN mà không chịu bất cứ hàng rào hay sự phân biệt đối xử nào. Tác động tích cực của AEC sẽ là hệ quả của sự vận động khách quan của các chủ thể và yếu tố sản xuất trong nền kinh tế khu vực. Người tiêu dùng ASEAN sẽ có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Thương mại nội khối có cơ hội phát triển.

Các doanh nghiệp sẽ được hưởng lợi nhiều hơn nhờ phát huy hiệu quả từ quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới hàng hóa các nước cạnh tranh cao hơn. Thương mại và đầu tư nội khối được tạo điều kiện thuận lợi để phát triển nhằm nâng cao năng lực sáng tạo, giải phóng tiềm năng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó sản phẩm đa dạng hơn, chất lượng và hiệu quả cao hơn, có lợi cho người tiêu dùng.

Điều mong đợi hơn cả là việc AEC có thể tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, đóng góp vào việc xây dựng năng lực cạnh tranh của ASEAN với thế giới, từ đó góp phần giảm khoảng cách giàu nghèo, khoảng cách phát triển và thúc đẩy ổn định xã hội. Như vậy, AEC không đơn thuần là tập hợp của các cam kết tự do hóa thương mại, đầu tư mà được xây dựng dựa trên sự thống nhất, hài hòa cao về hệ thống tiêu chuẩn, quy trình quản lý hoạt động thương mại, đầu tư và khả năng điều phối chặt chẽ các chính sách vĩ mô giữa các nước thành viên.

Lộ trình chiến lược và kế hoạch tổng thể thực hiện AEC đề cập đến hàng trăm biện pháp thuộc các lĩnh vực từ thuế quan, các biện pháp phi thuế, thủ tục hải quan, chính sách cạnh tranh, sở hữu trí tuệ, dịch vụ, đầu tư đến các vấn đề môi trường, lao động, phát triển nguồn nhân lực. Các biện pháp này có thể phân loại thành 4 nhóm gồm: (1) Nhóm biện pháp tạo lập một thị trường chung và không gian sản xuất thống nhất; (2) Nhóm biện pháp về nâng cao năng lực cạnh tranh của các khu vực, ngành kinh tế; (3) Nhóm các biện pháp tạo sự phát triển công bằng và đồng đều; và (4) Nhóm các biện pháp kết nối nền kinh tế ASEAN với bên ngoài.

Với các biện pháp trên, ta có thể thấy điểm đặc biệt trong cấu trúc xây dựng AEC là ASEAN sẽ không chỉ chú trọng vào các biện pháp liên kết nội khối mà còn bao gồm cả Nhóm các biện pháp hội nhập ASEAN với nền kinh tế toàn cầu. Cấu trúc này phản ánh một thực tế khách quan là ASEAN đang và sẽ luôn là một bộ phận của nền kinh tế khu vực và toàn cầu.

AEC là tâm điểm giao thoa của hàng chục thỏa thuận thương mại song phương và đa phương khác mà ASEAN đang triển khai hoặc tham gia đàm phán như các thỏa thuận thành lập Khu vực tự do thương mại của ASEAN với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Ấn Độ và có khả năng là các nước thuộc Khối thị trường chung Nam Mỹ (Mercosur).

Sự thực, AEC đang xác lập vị trí trung tâm của mình trong cấu trúc kinh tế khu vực và toàn cầu. Như vậy, có thể nói sự thịnh vượng của AEC chỉ thực sự vững chắc nếu như AEC tạo được mối liên kết hài hòa giữa hợp tác nội khối và giữa ASEAN với các đối tác ngoài khối.

Năm 2010 là năm có nhiều dấu mốc trong chặng đường thực hiện mục tiêu AEC. Từ tháng 1/2010, đã có tới 99% tổng số dòng thuế được xóa bỏ trong thương mại nội khối ASEAN. Mức thuế quan trung bình đã giảm xuống còn 0,9% trong năm 2009 từ mức 4,4% năm 2000.

Việc thực hiện các cam kết tự do hóa đối với 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập của ASEAN là dệt may, cao su, giầy dép, công nghiệp chế tạo ôtô, nông nghiệp, thủy sản, công nghệ thông tin, du lịch v.v... đang đi vào giai đoạn cuối.

Hiệp định về thương mại hàng hóa mới của ASEAN thay thế cho Hiệp định CEPT/AFTA trước đây có hiệu lực từ ngày 1/5/2010 đã kịp thời khắc phục những hạn chế pháp lý và mở ra cơ hội hợp tác chặt chẽ hơn nữa để thúc đẩy các chương trình thuận lợi hóa thương mại. Các luồng di chuyển vốn, dịch vụ được cởi mở thông thoáng trên định hướng của AEC. Với mong muốn tạo lập một nền tảng thương mại chung, ASEAN đang hướng sự nỗ lực cao nhất để thành lập Cơ chế một cửa ASEAN (ASW) để tăng tốc độ thông quan và giải phóng hàng hóa của các quan chức hải quan khu vực.

Tất cả các thành viên ASEAN đang thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) ở những giai đoạn khác nhau và sẽ hoàn thành trước năm 2012. Theo thống kê của Ban Thư ký ASEAN, tính đến ngày 1/1/2010, 91 trong tổng số 124 văn kiện pháp lý của AEC đã có hiệu lực. Con số này chiếm 73% của tất cả các văn kiện pháp lý liên quan tới việc thực hiện AEC.

Đóng góp của Việt Nam với mục tiêu thiết lập AEC

Năm 2010, năm Việt Nam đảm nhiệm vai trò Chủ tịch của ASEAN, cũng là năm bản lề của AEC. Chúng ta không chỉ tham gia với tư cách là một quốc gia thành viên mà còn tham gia vào việc định hướng dẫn dắt tiến trình hợp tác chung của ASEAN. AEC vẫn được Việt Nam lựa chọn là một nội dung quan trọng nhất trong Chương trình nghị sự của ASEAN trong năm 2010.

Ngay trong thông điệp đầu năm của Việt Nam với tư cách Chủ tịch của Hội nghị Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã thể hiện rất mạnh mẽ trọng tâm của Việt Nam và ASEAN trong năm 2010 là ưu tiên thực thi lộ trình của AEC đến năm 2015. Đây là mục tiêu lớn, quyết định sự tồn tại của ASEAN với tư cách là một thực thể kinh tế thống nhất, một đầu tầu của tiến trình liên kết kinh tế khu vực.

Trên thực tế, để thể hiện vai trò của Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã gương mẫu triển khai các cam kết AEC với thái độ chủ động và tích cực. Đến năm 2010, Việt Nam đã giảm thuế nhập khẩu cho gần 10.000 dòng thuế xuống mức 0-5% theo CEPT/AFTA, chiếm 97,8% số dòng thuế trong biểu thuế, trong đó có 5.488 dòng thuế ở mức thuế suất 0%.

Việt Nam cũng tham gia hợp tác một cách toàn diện cùng các nước ASEAN khác từ các lĩnh vực truyền thống như thương mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, nông nghiệp, giao thông vận tải, viễn thông, đến các lĩnh vực mới như bảo hộ sở hữu trí tuệ, chính sách cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng.

Dù trình độ phát triển chưa bằng một số nước trong khu vực nhưng Việt Nam được đánh giá là một trong 4 thành viên ASEAN có tỷ lệ hoàn thành tốt nhất các cam kết trong Lộ trình tổng thể thực hiện AEC.

Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 16 tại Hà Nội, dưới sự chủ trì của Việt Nam, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ra “Tuyên bố về phục hồi và phát triển bền vững” nêu rõ quyết tâm củng cố và xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN vào năm 2015.

Lần đầu tiên, ASEAN đưa ra một mô hình phát triển Cộng đồng Kinh tế ASEAN dựa trên sự hài hòa của nhiều chính sách từ kinh tế đến xã hội, môi trường, chính sách quản lý kinh tế vĩ mô. AEC sẽ tạo lập một khuôn khổ hợp tác chặt chẽ, phát triển cân bằng, đồng đều của ASEAN. Tuyên bố cũng khẳng định AEC không đơn thuần là vấn đề một “thương hiệu” nhằm thu hút các nhà đầu tư, kinh doanh trong khu vực mà thực sự cho phép ASEAN đóng vai trò lớn hơn, “vai trò trung tâm” trong quan hệ với các đối tác ngoài khối.

Một trong những trở ngại trên con đường đến với AEC là tình trạng chậm thực hiện nhiều hiệp định quan trọng liên quan đến AEC. Trong năm 2010, Việt Nam cùng với các thành viên ASEAN đã thúc đẩy mạnh mẽ việc sớm khắc phục tình trạng này, nhằm tạo một hành lang pháp lý thuận lợi nhất cho AEC.

Ngày 1/5/2010, sau gần 8 tháng chậm chễ, Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) đã chính thức có hiệu lực, thay thế Hiệp định về Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung để thực hiện Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (CEPT/AFTA).

Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA), Gói cam kết thứ 7 trong khuôn khổ Hiệp định khung ASEAN về thương mại dịch vụ (AFAS), Hiệp định đa phương về tự do hóa hoàn toàn vận tải hàng không, Hiệp định khung ASEAN về hàng quá cảnh v.v… cũng đang trong quá trình rà soát lần cuối trước khi chính thức có hiệu lực.

Để có cơ sở đánh giá mức độ thực hiện của các thành viên, Hội đồng AEC nhất trí xây dựng công cụ mới là Biểu đánh giá thực hiện AEC, một cơ chế giám sát minh bạch và chặt chẽ tiến độ thực hiện AEC của từng thành viên. Năm 2010, lần đầu tiên, Biểu đánh giá AEC cho giai đoạn 2007 đến 2010 đã được hoàn thành.

Một hoạt động rất có ý nghĩa khi thiết lập AEC là việc thay đổi và nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và người dân ASEAN về AEC. Quảng bá về AEC và mở rộng đối thoại với doanh nghiệp về AEC sẽ có tác động tích cực đến lợi ích lâu dài của AEC với cộng đồng. Việt Nam là một trong những nước ASEAN đi đầu trong việc nâng cao quảng bá và thực thi một cách chủ động Chương trình truyền thông của ASEAN về AEC cả trên cấp độ quốc gia và khu vực.

Theo sáng kiến của Việt Nam, các nước ASEAN sẽ lần lượt tổ chức các diễn đàn thảo luận về hiệu quả của AEC đối với 12 lĩnh vực ưu tiên hội nhập. Với tư cách là nước điều phối thực hiện Lộ trình hội nhập nhanh trong lĩnh vực Logistics, Việt Nam dự kiến sẽ tổ chức Diễn đàn doanh nghiệp về dịch vụ Logistics vào tháng 8/2010 bên lề Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 41 và Hội nghị Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) lần thứ 4.

Cộng đồng kinh tế ASEAN đang tạo ra những cơ hội và cả thách thức chưa có tiền lệ đối với nền kinh tế, doanh nghiệp và người dân Việt Nam. Khi không còn những ngăn cách về không gian kinh tế; hàng hóa, dịch vụ và vốn được lưu chuyển tự do trong ASEAN thì bất cứ doanh nghiệp hay nhà đầu tư ASEAN nào cũng đều có cơ hội như nhau trong việc tận dụng và phát huy ưu thế của thị trường chung của 10 nước ASEAN. Nhưng thách thức và cơ hội luôn vận động, biến đổi rất nhanh trong bối cảnh hội nhập của khu vực. Hệ quả của quá trình đó là sự thay đổi dần dần cơ cấu kinh tế theo hướng thích nghi.

ASEAN hiện là đối tác thương mại quan trọng hàng đầu của Việt Nam và là động lực giúp nền kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng và xuất khẩu trong nhiều năm qua, vượt trên cả EU, Nhật Bản, Trung Quốc hay Hoa Kỳ.

Với lợi thế là một khu vực phát triển năng động, gần gũi về địa lý, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và ASEAN có mức tăng trưởng cao. So với năm 2002, thương mại hai chiều ASEAN và Việt Nam đã tăng hơn 3 lần đạt gần 30 tỷ USD vào năm 2008, chiếm 21% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam.

Cũng trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình của Việt Nam sang ASEAN là 28,4% và nhập khẩu là 27%. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN tăng từ 2,9 tỷ USD năm 2003 lên tới 8,9 tỷ USD năm 2009. Năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore, Thái Lan, Philippines và Campuchia đều đã đạt trên 1 tỷ USD. Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đang chuyển biến theo chiều hướng tích cực, nâng cấp cả về chất lượng và giá trị.

Ngoài những mặt hàng nông sản và nguyên liệu như gạo, càphê, cao su, dầu thô có hàm lượng chế tác thấp, Việt Nam đã xuất khẩu nhiều mặt hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp như linh kiện máy tính, dệt may, nông sản chế biến, mỹ phẩm với giá trị cao và ổn định. Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng gia nhập các câu lạc bộ các nước xuất khẩu lớn nhất trên thế giới về gạo, caosu, càphê, hạt điều, hàng dệt may v.v...

Trong đầu tư trực tiếp nước ngoài, ASEAN cũng đang là một trong những nguồn cung ứng vốn lớn nhất của Việt Nam, trong đó, những thành viên ASEAN có vốn đầu tư lớn vào Việt Nam là Singapore (trên 16 tỷ USD), Malaysia (18 tỷ USD) và Thái Lan (5,6 tỷ USD), Brunei (4,6 tỷ USD).

Xét trên mối tương quan về quan hệ kinh tế của Việt Nam với ASEAN so với thế giới cũng như xét trên triển vọng của hợp tác kinh tế ASEAN, việc thiết lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là cơ hội to lớn của Việt Nam. ASEAN đã là cánh cửa quan trọng của Việt Nam với thế giới. AEC sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam ngày càng định vị rõ hơn, vững chắc hơn trong cấu trúc chuỗi sản xuất chung của khu vực.

Quỹ thời gian 5 năm cho việc hoàn thành AEC là không nhiều nên việc sớm nhận diện những cơ hội mới cũng như cả các thách thức mới sẽ xác lập một chiến lược rõ nét của Việt Nam, tham gia chủ động, tích cực hơn, ứng phó linh hoạt và có hiệu quả hơn vào tiến trình thiết lập AEC./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục