Trong khi đó, Việt Nam vừa mới thoát khỏi danh sách các nước có mức thunhập thấp để chuyển sang nước có mức thu nhập trung bình; tăng trưởng kinh tếthời gian qua chủ yếu dựa vào tăng trưởng vốn đầu tư và các lợi thế về tàinguyên, mà chưa thực sự bắt nguồn từ giá trị do chính người dân và doanh nghiệptrong nước tạo ra.
Tại Hội nghị thường niên Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) lần thứ 44,ngày 6/5, Phóng viên Thông tấn xã Việt Nam đã phỏng vấn Tổng Giám đốc Điều hànhADB Rajat Nag về những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt và vượt qua đểthoát khỏi "bẫy thu nhập trung bình."
- Cả IMF và EU đều khẳng định rằng Việt Nam đang hội tụ nhiều bất lợivà dễ mắc vào “bẫy thu nhập trung bình.” Xin ông cho biết quan điểm của ADB vềnhận định này?
Ông Rajat Nag: Tôi nghĩ rằng tất cả các nước đang phát triển có mứcthu nhập trung bình đều rất dễ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” và Việt Namkhông phải là một ngoại lệ. Nhưng tôi tin rằng Việt Nam có thể thoát ra khỏi“bẫy thu nhập trung bình” nếu sớm có các giải pháp và quyết tâm mạnh mẽ.
Tôi cũng nghĩ rằng Chính phủ Việt Nam đã nhận ra thách thức này và ngay từđầu năm 2011 đã thông qua một chiến lược phát triển kinh tế-xã hội cho cả giaiđoạn 2011-2020, nhằm đối phó tốt hơn với các thách thức.
Theo đó, Chính phủ Việt Nam đặt quyết tâm tái cơ cấu các doanh nghiệp nhànước, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cònyếu kém hiện nay. Chúng tôi đánh giá cao chiến lược đúng hướng này của Việt Nam.
Tôi cũng nghĩ rằng Việt Nam cần tiếp tục mục tiêu tăng trưởng chất lượngthay vì chạy theo số lượng. Và đây chính là cách để Việt Nam thoát ra khỏi nguycơ bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình.” Tuy nhiên, đây là công việc rất khókhăn đòi hỏi một quyết tâm mạnh mẽ cũng như sự kiên định của Chính phủ.
- Vậy ông có thể đưa ra những khuyến nghị cụ thể hơn nhằm giúp Việt Namtránh khỏi “bẫy thu nhập trung bình”?
Ông Rajat Nag: Đầu tiên, Việt Nam cần triển khai ngay việc thựchiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội bằng những chương trình và giải phápcụ thể. Tôi cũng tin tưởng Việt Nam sẽ có thể thoát khỏi bẫy nguy hiểm này bởiđã nhìn nhận đúng thách thức. Theo tôi, Việt Nam nên tập trung vào giải quyếtcác vấn đề bất bình đẳng trong xã hội để mọi người dân Việt Nam đều được thụhưởng những thành quả của tăng trưởng kinh tế mang lại.
Tôi phải nhấn mạnh các nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia, trong đó có ViệtNam, cần nâng cao năng lực quản trị điều hành đất nước. Đây là vấn đề hết sứcquan trọng, trong đó cần tập trung chống lại nạn tham nhũng, nâng cao năng lựccạnh tranh và chất lượng dịch vụ công trong xã hội.
Vấn đề quan trọng thứ ba mà Chính phủ Việt Nam đã nhận ra là phải quyếttâm phát triển kinh tế theo mô hình “tăng trưởng xanh.” Với đặc điểm địa lý cóhàng nghìn km bờ biển chạy dọc đất nước, hiện biến đổi khí hậu đang tác độngmạnh mẽ đến Việt Nam, với những trận bão, lũ, hạn hán... xảy ra thường xuyên.
Vì vậy, việc thiết lập ngay các bước đi cụ thể để đảm bảo tăng trưởngxanh, tăng trường bền vững và bảo vệ môi trường là đòi hỏi cấp thiết với Chínhphủ Việt Nam. Tôi biết rằng Chính phủ Việt Nam đã đạt được sự nhất trí cao về môhình tăng trưởng này và đang bắt tay vào thực hiện các công việc cụ thể.
- Hiện Việt Nam đang quyết liệt chống lại lạm phát cao. Xin ông chobiết nguyên nhân chính gây ra lạm phát hiện nay tại Việt Nam là gì? Việc dòngvốn nóng đang đổ vào khu vực bất động sản thay vì đổ vào khu vực sản xuất cóphải là một nguyên nhân quan trọng khiến lạm phát tại Việt Nam tăng cao?
Ông Rajat Nag: Đúng là dòng vốn nóng đổ vào châu Á đang là mộttrong những nguyên nhân khiến giá cả bị đẩy lên cao, khiến lạm phát tiêu dùnggia tăng, nhưng trường hợp của Việt Nam hơi khác.
Tại Việt Nam, nguồn cung hiện không đáp ứng đủ cầu. Trong khi nhu cầu giatăng do tăng trưởng kinh tế, năng lực sản xuất hiện nay không đủ để theo kịp vớisự gia tăng của nhu cầu. Và khi cung không đáp ứng được cầu sẽ khiến cho giá cảbị đẩy lên.
Thêm vào đó, Việt Nam là một nền kinh tế mở. Trong hoạt động thương mạivới bên ngoài, Việt Nam sẽ phải nhập khẩu một phần lạm phát ở bên ngoài, nêndòng vốn nóng cũng là một vấn đề nhưng không phải là nguyên nhân chính.
Theo tôi, vấn đề chính là cung-cầu không đồng bộ. Một lý do lớn khác củalạm phát là giá lương thực tăng cao, cú sốc giá dầu, đây là những yếu tố nhậpkhẩu vào các nước như Việt Nam. Ngoài ra, sự không hiệu quả trong hệ thống phânphối, nhất là với các mặt hàng thiết yếu như lương thực, thực phẩm… cũng lànguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng bản thân dòng vốn nước ngoài không có gì là không tốt cả, màquan trọng là nó đi vào đâu, nếu nó đi vào đầu tư sản xuất lâu dài thì điều đóhoàn toàn tốt. Nếu nó đi vào thị trường chứng khoán và biến động thất thường thìlại không tốt. Đây là một vấn đề Việt Nam cần phải theo dõi, nhưng không quá longại về nó.
- Giá lương thực và dầu đã tăng rất mạnh và tác động đến lạm phát tạinhiều nước trên thế giới. Vậy, tại sao chỉ một số quốc gia như Việt Nam lại cólạm phát cao đến thế?
Ông Rajat Nag: Có chứ, một số nước có lạm phát từ lương thực caohơn mức lạm phát trung bình của thế giới. Việt Nam tất nhiên là một trong cácnước như vậy. Nhưng như tôi nói, Việt Nam đang đối mặt với vấn đề hạn chế nguồncung.
Và ở Việt Nam, Chính phủ đã bắt đầu có quyết sách bằng việc triển khaiquyết liệt Nghị quyết 11, trong đó thực thi đồng thời hai chính sách là thắtchặt tiền tệ và tài khóa. Chính phủ cũng bắt đầu xem xét lại sự thâm hụt từ đầutư cho cơ sở hạ tầng, tạo ra chi phí giao dịch tăng trong vận chuyển hàng hóa.
Việt Nam đang đối mặt với tình trạng lạm phát nghiêm trọng, nhưng chúngtôi cảm nhận là Chính phủ đã nhận ra mức độ của vấn đề và đang có các đối sáchxử lý đúng hướng.
- Trong Nghị quyết 11, các biện pháp chủ yếu cho đến nay vẫn là thắtchặt chính sách tiền tệ. Theo ông, những động thái này đã đủ để kiềm chế lạmphát tại Việt Nam chưa?
Ông Rajat Nag: Tôi nghĩ là không công bằng khi nói chỉ có chínhsách tiền tệ. Nghị quyết 11 củu Chính phủ Việt Nam là một gói giải pháp. Khôngchỉ chính sách tiền tệ, Chính phủ còn quan tâm đến chính sách tài khóa, đưa racác biện pháp tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước để giảm các chiphí ngầm.
Việc thực hiện các giải pháp này cần phải có thời gian. Tôi nghĩ, vấn đềchính về lạm phát ở Việt Nam là về nguồn cung. Vì vậy, các biện pháp Việt Namthực hiện để tăng năng suất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng nguồn cung hànghóa đều quan trọng và điều này cần thời gian.
- Xin trân trọng cảm ơn ông!