Việt Nam thực hiện thành công phổ cập giáo dục tiểu học

Theo bà Lotta Sylwander, cuối 2012, tỷ lệ nhập học cấp tiểu học đạt 97,7%, thành tích vô cùng lớn khi nhìn vào xuất phát điểm của Việt Nam.

189 quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam đã cam kết phấn đấu đạt được tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (được ghi trong Bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc năm 2000) vào năm 2015.

Trong các mục tiêu này, phổ cập giáo dục tiểu học là một trong những mục tiêu mà Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể, hiện 61/63 tỉnh, thành đã đạt chuẩn phổ cập tiểu học đúng độ tuổi cấp độ I.

Bà Lotta Sylwander, Trưởng Đại diện Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF) tại Việt Nam đã dành cho phóng viên TTXVN cuộc trao đổi về những thành tựu và thách thức của Việt Nam trong nỗ lực thực hiện thành công mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Sau đây là nội dung cuộc trao đổi:

- Phổ cập giáo dục tiểu học ở Việt Nam là một trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ, bà có đánh giá như thế nào về thành tựu này ở Việt Nam trong lĩnh vực này?

Bà Lotta Sylwander: Xin chúc mừng Đảng và Chính phủ Việt Nam với thành công trong việc đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Cuối năm 2012, tỷ lệ nhập học ở cấp tiểu học đã đạt 97,7%. Đây là thành tích vô cùng to lớn khi chúng ta nhìn vào xuất phát điểm của Việt Nam.

Tuy nhiên, tôi cho rằng cũng cần quan tâm đến tỷ lệ hoàn thành cấp học tiểu học. Trong năm 2012, tỷ lệ hoàn thành tiểu học là hơn 92% (tức là có gần 8% học sinh không hoàn thành). Vì vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra như chất lượng giáo dục, phương pháp giáo dục...

Tôi cho rằng, thế giới nhìn chung đang hướng tới phương pháp sư phạm mang tính tham gia và đối thoại nhiều hơn giữa học sinh và giáo viên. Do đó, học sinh có nhiều cơ hội tham gia vào các hoạt động của trường lớp, UNICEF gọi mô hình này là trường học thân thiện.

Một vấn đề khác mà chúng tôi quan tâm là những đối tượng còn gặp nhiều khó khăn để chưa được tiếp cận giáo dục tiểu học, chủ yếu là nhóm trẻ em thiệt thòi như trẻ em nghèo, phần lớn ở các vùng nông thôn, vùng cao nguyên miền núi và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.

Chúng ta cũng đang quan tâm hỗ trợ giảm bớt thách thức này với nhóm trẻ thiệt thòi tại vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, nơi còn có trẻ em gặp nhiều thách thức chưa được tiếp cận với trường học.

Chúng tôi cũng quan tâm tới ty lệ mù chữ ở phụ nữ dân tộc thiểu số, tỷ lệ này có thể lên tới 25% và ở một số dân tộc, con số này có thể lên tới 30%, đặc biệt là ở vùng núi phía Bắc.

- Bên cạnh những kết quả đã đạt được, bà có nhận định gì về những thách thức đối với giáo dục phổ thông của Việt Nam trong quá trình phát triển?

Bà Lotta Sylwander: Theo tôi, có một số thách thức mà cả cấp tiểu học và trung học đều phải đối mặt. Trước hết là đảm bảo bình đẳng trong giáo dục. Điều này có nghĩa là một số nhóm, nhất là nhóm những đối tượng thiệt thòi, hạn chế trong việc tiếp cận với giáo dục.

Cụ thể như ở vùng dân tộc thiểu số, việc giảng dạy đều bằng tiếng Việt, vì vậy, rào cản ngôn ngữ giữa học sinh và giáo viên chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỉ lệ bỏ học của học sinh dân tộc thiểu số cao.

Một rào cản khác, theo tôi, liên quan tới chất lượng của hệ thống giáo dục, đó là cơ sở vật chất của nhà trường và các yếu tố khác. Khi nhắc đến chất lượng giảng dạy trong hệ thống giáo dục, tôi cho rằng thế giới đang không ngừng thay đổi và hệ thống giáo dục Việt Nam chưa thực sự được điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu của lực lượng lao động mà thế giới hiện nay đang cần.

Ví dụ như nhu cầu tập trung vào khả năng giải quyết vấn đề, tư duy phân tích độc lập, khả năng tranh luận và đối thoại và tư duy phản biện. Hệ thống giáo dục cần coi trọng những khía cạnh mới này nhằm tạo ra một lực lượng lao động phù hợp với thị trường thế giới.

Bên cạnh đó, vẫn còn thách thức trong đảm bảo cơ sở vật chất ở các trường học. Nhiều trường học, đặc biệt là các trường không thuộc các thành phố lớn, không có nước sạch và nhà vệ sinh hợp vệ sinh. Đây là hai yếu tố đảm bảo sức khỏe và vệ sinh cho học sinh, điều này rất quan trọng.

Một vấn đề khác mà chúng tôi đang cùng với Bộ Giáo dục và Đào tạo thực hiện là đem lại cơ hội học tập phù hợp và có thể tiếp cận được cho trẻ em dân tộc thiểu số và trẻ em sống ở các vùng xa xôi hẻo lánh. Các trường phổ thông dân tộc bán trú là một giải pháp hữu hiệu.

Đối với chúng tôi và Chính phủ Việt Nam, đây là một vấn đề lớn cần quan tâm. Nếu trường bán trú thực sự phù hợp và an toàn với trẻ em, tôi chắc chắn rằng sẽ có nhiều trẻ em dân tộc thiểu số hơn nữa sẽ có thể hoàn thành tiểu học và tiếp tục đến trường.

Vấn đề cuối cùng, cũng rất quan trọng, mà tôi muốn đề cập là trẻ em khuyết tật ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong việc hạn chế khi tiếp cận với hệ thống giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo chia sẻ quan điểm này và chúng tôi cũng đang cố gắng hợp tác nhằm tạo ra một hệ thống giáo dục hòa nhập có chất lượng, nơi giáo viên có thể tiếp nhận học sinh khuyết tật, giúp các em học được nhiều nhất trong nhà trường.

- Trong thời gian tới, UNICEF có kế hoạch như thế nào để hợp tác và hỗ trợ các mục tiêu phát triển giáo dục ở Việt Nam?

Bà Lotta Sylwander: Hiện nay, chúng tôi đang thực hiện Chương trình Giáo dục Song ngữ dựa trên tiếng mẹ đẻ, trong đó nhấn mạnh rằng trẻ em dân tộc thiểu số học tốt hơn nếu bắt đầu học bằng tiếng mẹ đẻ.

Ngay từ bậc mầm non, trẻ em ba nhóm dân tộc thiểu số Mông, J'rai và Khmer được học bằng tiếng mẹ đẻ và học kiến thức cơ bản. Sau đó, ở cấp tiểu học, các em tiếp tục được học bằng tiếng mẹ đẻ và được học với các cô giáo cùng dân tộc với mình, vì thế, chúng tôi đưa vào đào tạo các giáo viên dân tộc thiểu số kỹ năng sư phạm, đối thoại với trẻ em, thu hút trẻ em tham gia vào bài giảng một cách năng động hơn nhiều.

Tiếp theo, lên tới lớp 3, tiếng Việt bắt đầu được đưa vào như một ngôn ngữ giảng dạy và tiếp tục ở lớp 4 và lớp 5. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, đến lớp 5, học sinh đã thực sự thành thạo được hai ngôn ngữ, đạt chuẩn của chương trình quốc gia.

Các em có thể nghe hiểu hoàn toàn khi đọc, nói và viết bằng tiếng mẹ đẻ cũng như bằng tiếng Việt. Kết quả học tập của ba nhóm dân tộc thiểu số này trong kỳ kiểm tra chuẩn kiến thức kỹ năng quốc gia đa phần là tốt. Đây cũng là một cách chúng tôi làm việc với Chính phủ Việt Nam nhằm cải thiện hệ thống nhà trường nhằm hòa nhập nhóm trẻ em bị thiệt thòi.

Chúng tôi cũng cộng tác về lĩnh vực giáo dục và phát triển trẻ thơ để đảm bảo trẻ em được chăm sóc và giáo dục ở bậc mầm non một cách hợp lý, nhằm chuẩn bị tốt hơn cho các em khi đi học phổ thông; phát triển tốt hơn khả năng tư duy và nhận thức của các em. Vì giáo dục và phát triển trẻ thơ là một khía cạnh quan trọng của giáo dục.

Chúng tôi cũng đã và đang cụ thể hóa khái niệm chương trình trường học thân thiện với trẻ em tại Việt Nam. Đây là khía cạnh rộng hơn, liên quan tới cách thức làm việc với giáo viên, hiệu trưởng và các học sinh. Mục tiêu của chương trình là tạo ra một môi trường thuận lợi nhất mà học sinh có thể phát triển hết tiềm năng.

Các em cảm thấy mình được lắng nghe, được tham gia vào những quyết định và những điều đang diễn ra trong nhà trường. Thầy cô giáo thực sự là những người thiết kế hoạt động giáo dục để học sinh phát triển, học được những kỹ năng mới giúp học sinh thành công trong cuộc sống, không chỉ giảng dạy kiến thức mà còn dạy học sinh cách thức đương đầu với những vấn đề khác nhau trong cuộc sống.

Ngoài ra, chúng tôi cũng hợp tác với Chính phủ thực hiện một số sáng kiến liên quan tới giáo dục hòa nhập, xây dựng các phương án hòa nhập cho trẻ em khuyết tật. Hỗ trợ Bộ Giáo dục và Đào tạo và các sở Giáo dục và Đào tạo ở tại các tỉnh thiết lập các trung tâm nguồn hỗ trợ học sinh khuyết tật tiếp cận giáo dục hòa nhập.

Chúng tôi đã và đang hỗ trợ xây dựng mô hình này tại Đà Nẵng và đang nhân rộng mô hình này sang các tỉnh khác, đặc biệt là các tỉnh có nhiều trẻ em bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam/dioxin.

Chúng tôi cũng đang tiếp tục phối hợp với Chính phủ Việt Nam để mở rộng hợp tác ngành trong việc thúc đẩy nâng cao chất lwongj giáo dục hòa nhập nhóm trẻ em thiệt thòi. Sự tham gia của nhiều thành phần khác vào hệ thống giáo dục, trong đó có sự tham gia của Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên và khối ngành tư nhân cũng đem lại những đóng góp vô cùng lớn.

Xin trân trọng cảm ơn bà!

(TTXVN)

Tin cùng chuyên mục