Thứ trường Bộ Tài nguyên và Môi trường Chu Phạm Ngọc Hiển cho biết 13 Bộ cóliên quan đến quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo đều thốngnhất ý kiến về sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảocũng như phạm vi điều chỉnh và những quan điểm, chủ trương chính sách lớn cầnđược thể chế trong Luật.
Hội thảo này nhằm làm rõ thêm sự cần thiết ban hành, quan điểm, nguyên tắc, phạmvi điều chỉnh và bố cục của Dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảođể tránh mâu thuẫn, chồng chéo trong hệ thống pháp luật, đồng thời giải trình,tiếp thu ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành, nhất là trong những vấn đề còn cónhững ý kiến khác nhau.
Các đại biểu đã có những ý kiến đề nghị nghiên cứu sửa đổi, bổ sung những nộidung còn thiếu hoặc chưa hợp lý như Luật cần quy định cụ thể để thuận tiện choviệc triển khai thực hiện; cần đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất với các văn bảnquy phạm pháp luật có liên quan; cần làm rõ phạm vi điều chỉnh trên các đảo vàotrong nội thủy liên quan đến các Luật chuyên ngành khác; cụ thể hóa một số nộidung trong dự án Luật như đảo, ranh giới trên biển, năng lượng biển…; bổ sungthêm các nội dung về phát triển khoa học công nghệ phục vụ khai thác, sử dụng vàbảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo…
Dự thảo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo dự kiến gồm 10 chương, gồmChương I: Những quy định chung; Chương II: Quản lý hoạt động điều tra cơ bản,nghiên cứu khoa học biển và hải đảo; Chương III: Chiến lược, quy hoạch khaithác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo; Chương IV: Quản lý hoạt động khaithác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo; Chương V: Bảo vệ môi trường biển vàhải đảo; Chương VI: Nguồn lực quản lý, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển vàhải đảo; Chương VII: Hợp tác quốc tế về tài nguyên và môi trường biển và hảiđảo; Chương VIII: Trách nhiệm quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển vàhải đảo; Chương IX: Kiểm tra, giám sát các hoạt động điều tra cơ bản, khai thác,sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo; Chương X: Điều khoảnthi hành.
Việt Nam có chiều dài đường bờ biển trên 3.260 km, vùng biển đặc quyền kinh tếvà thềm lục địa rộng gấp khoảng 3 lần diện tích đất liền. Do vậy, biển và hảiđảo có vai trò, vị trí quan trọng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội,có chiến lược đặc biệt quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốctrong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài./.