Nhân kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập ngành ngoại giao (28/8/1945-28/8/2010), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm có bài viết nhan đề "Ngoại giao Việt Nam - 65 năm đồng hành cùng đất nước."
TTXVN xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
Ngoại giao Việt Nam 65 năm: một chặng đường vẻ vang
Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm 15 bộ, trong đó có Bộ Ngoại giao. Kể từ đó, ngày 28/8 trở thành ngày truyền thống của ngành ngoại giao.
Trong không khí cả nước tưng bừng kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chuẩn bị tổ chức Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội và đang tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nhân Ngày truyền thống của ngành ngoại giao, chúng ta tự hào ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang của ngoại giao Việt Nam.
Sáu mươi lăm năm trước, ngay từ buổi đầu thành lập, ngành ngoại giao đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, trực tiếp chỉ đạo, xây dựng và dìu dắt. Mỗi bước trưởng thành và thành tựu của ngành ngoại giao đồng hành cùng đất nước trên những chặng đường vẻ vang của dân tộc 65 năm qua đều in đậm dấu ấn tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.
Những năm đầu mới thành lập, dù khó khăn và thiếu thốn mọi bề, nhưng ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo và tham gia trực tiếp của Bác Hồ đã góp phần bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ.
Trong bối cảnh đất nước phải đối phó với thù trong giặc ngoài, sách lược ngoại giao “hòa để tiến” đã tranh thủ thời gian cho Cách mạng củng cố lực lượng, chuẩn bị trường kỳ kháng chiến.
Và cũng chính trong giai đoạn vô cùng khó khăn này của cách mạng Việt Nam, ngoại giao đã rút ra được những bài học đầu tiên nhưng vô cùng quý giá bắt nguồn từ tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Đó là bài học về nguyên tắc “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu,” về chủ trương “thêm bạn, bớt thù,” về phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến,” về sách lược “lợi dụng mâu thuẫn giữa kẻ thù” để từ đó đặt nền móng cho thắng lợi của các thời kỳ tiếp nối.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân, ngoại giao đã khắc phục mọi khó khăn, vừa đấu tranh phá vỡ thế bao vây, vừa nỗ lực mở rộng quan hệ và tranh thủ sự ủng hộ và chi viện của bạn bè quốc tế cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.
Những thắng lợi vang dội trên chiến trường mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đã đưa đến thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Geneva về Đông Dương năm 1954, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của nền ngoại giao non trẻ Việt Nam trên trường quốc tế.
Thế giới đã chính thức công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là những quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Một nửa đất nước đã được giải phóng hoàn toàn, tạo cơ sở pháp lý và hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất toàn vẹn nước nhà.
Chín năm kháng chiến trường kỳ đã mang lại cho ngành những bài học quý báu về vận động ngoại giao, về tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp chính nghĩa của cách mạng Việt Nam, và đặc biệt, là những bài học về đàm phán đa phương tại một hội nghị quốc tế lớn có liên quan trực tiếp tới vận mệnh dân tộc.
Giai đoạn 1954-1975 đã chứng kiến sự trưởng thành mạnh mẽ của ngoại giao Việt Nam. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao lại tự tin cùng cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ngoại giao đã phát huy bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè thế giới và đông đảo kiều bào ta ở nước ngoài hình thành một mặt trận toàn cầu giúp đỡ Việt Nam vừa xây dựng đất nước, vừa chiến đấu vì độc lập, thống nhất.
Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược, phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự và chính trị để "vừa đánh, vừa đàm" giành thắng lợi từng bước, tiến tới ký kết Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng cho đại thắng Mùa Xuân lịch sử năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau chiến tranh, ngoại giao tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, huy động các nguồn hợp tác, hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế để tái thiết đất nước. Bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định nhiệm vụ đối ngoại trong thời kỳ mới là tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định cho mục tiêu phát triển kinh tế.
Ngành ngoại giao đã góp phần phá bao vây, cấm vận và chủ động triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa. Mong muốn “sẵn sàng làm bạn với mọi nước dân chủ” từ ngày đầu lập quốc của Bác đã được ngoại giao triển khai thành công trên tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.”
Sau gần 25 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về đối ngoại. Từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay Việ Nam có quan hệ ngoại giao với 179 nước, quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế - chính trị hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn.
Việt Nam là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã đảm đương tốt cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và đang đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010...
Ngoại giao cũng góp phần tích cực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để kiều bào ta ngày càng hướng về Tổ quốc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Công tác biên giới lãnh thổ đạt nhiều kết quả quan trọng, trong đó nổi bật là việc lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, hai bên đã hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền và ký các văn bản pháp lý liên quan.
Ngày nay, thế giới biết đến Việt Nam không chỉ là dân tộc yêu chuộng hòa bình, quật cường, anh dũng trong chiến tranh, mà còn là đất nước đổi mới thành công, thân thiện, có nhiều tiềm năng, kinh tế phát triển năng động, tích cực tham gia vào các công việc quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Trong những thành tựu đáng tự hào đó của cả dân tộc, có sự đóng góp đáng kể của ngành ngoại giao trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong việc triển khai có hiệu quả ba trụ cột đối ngoại là ngoại giao Chính trị, ngoại giao Kinh tế, ngoại giao Văn hóa, kết hợp với công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Bên cạnh những thành tựu về đối ngoại, không thể không nhắc đến những kết quả của công tác xây dựng ngành 65 năm qua. Từ 20 cán bộ trong những ngày đầu thành lập, ngày nay ngoại giao đã trở thành lực lượng đối ngoại chủ lực của đất nước với hơn 2.366 cán bộ, nhân viên ngoại giao vững vàng về bản lĩnh chính trị-tư tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc; được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ.
Tổ chức bộ máy của ngành ngoại giao ở cả trong và ngoài nước không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Từ chỗ chỉ có bốn phòng chức năng trong những ngày đầu thành lập, hiện nay Bộ Ngoại giao đã có 35 cục, vụ, viện chức năng, một số đơn vị đã được thành lập mới, nâng cấp, kiện toàn tổ chức để đáp ứng yêu cầu công tác mới (như Ủy ban biên giới quốc gia, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Học viện Ngoại giao, Viện Nghiên cứu chiến lược...).
Hệ thống Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã phát triển lên 93 cơ quan ở khắp các châu lục. Mạng lưới cơ quan ngoại vụ địa phương đã là 33 sở, 30 phòng và bộ phận thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh trên khắp cả nước, đảm nhiệm ngày càng hiệu quả vai trò "cánh tay nối dài" của ngành ngoại giao ở các địa phương. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu chiến lược không ngừng được nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng tốt các nhiệm vụ ngoại giao toàn diện trong bối cảnh mới.
Những thành tựu đối ngoại quan trọng mà ngành đã đạt được trong chặng đường lịch sử 65 năm qua đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận và đánh giá cao. Ngành vinh dự và tự hào được trao tặng Huân chương Sao Vàng năm 1995 và Huân chương Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập ngành.
Ngoại giao tiếp tục nỗ lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong bối cảnh an ninh và phát triển của đất nước ngày càng gắn bó chặt chẽ với môi trường quốc tế, chúng ta cần bám sát tình hình trong nước và đánh giá khách quan bối cảnh quốc tế để xác định được tầm nhìn chiến lược của Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ mới.
Ở trong nước, đất nước ta về cơ bản đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, chính trị-xã hội ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng, an ninh-quốc phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu.
Giai đoạn 2010-2015 sẽ là một giai đoạn có ý nghĩa trọng đại của đất nước, toàn Đảng, toàn dân bước vào triển khai thực hiện Cương lĩnh bổ sung về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chủ động và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, phấn đấu thực hiện mục tiêu tổng quát đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị xã hội ổn định, đồng thuận, dân chủ, kỷ cương; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Trong khi đó, trên thế giới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hóa tiếp tục gia tăng; châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có ASEAN, tiếp tục phát triển năng động, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống chính trị và kinh tế quốc tế. Đây là những cơ hội để đưa quan hệ quốc tế của ta đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển kinh tế.
Bên cạnh những cơ hội, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Chất lượng phát triển kinh tế-xã hội và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; nguy cơ tụt hậu còn lớn, các thế lực chống đối, thù địch và cơ hội chính trị vẫn tăng cường hoạt động. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh tài chính, an ninh năng lượng và lương thực ngày càng nổi lên rõ rệt.
Tình hình mới đòi hỏi ngoại giao phải chủ động và sáng tạo hơn, nhạy bén và hiệu quả hơn, phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng, an ninh, kinh tế, tư tưởng văn hóa... để tạo ra sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh đó và quán triệt sâu sắc phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến," ngành ngoại giao cần “lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc” và “lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.”
Trong thời gian tới, ngành cần xác định việc phục vụ phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời đảm bảo an ninh là mục tiêu quan trọng thường trực. Mục tiêu nâng cao vị thế quốc tế có ý nghĩa quan trọng và lâu dài, nhất là khi đất nước đang hội nhập sâu rộng.
Để thực hiện các mục tiêu đó, cần tiếp tục đẩy mạnh nền ngoại giao toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, huy động sự tham gia sâu rộng của các ngành, các cấp, các địa phương, dưới nhiều hình thức, biện pháp, hướng tới nhiều đối tác, trên nhiều địa bàn, phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao Nhà nước với đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân, dựa trên ba trụ cột ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, kết hợp với công tác người Việt Nam ở nước ngoài, đặt các lĩnh vực này trong mối quan hệ tổng hòa, tác động qua lại, đan xen lẫn nhau, với những bước đi mạnh mẽ và vững chắc.
Ngoại giao chính trị cần không ngừng phát triển các mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng, các khu vực, coi trọng quan hệ với các nước lớn; chủ động đưa quan hệ với tất cả các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin trong quan hệ đối ngoại; kiên định mục tiêu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia; tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào các tổ chức và diễn đàn quốc tế.
Ngoại giao kinh tế cần tham gia làm tốt công tác dự báo, tham mưu cho Đảng và Nhà nước điều hành nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Đồng thời, cần chủ động, tích cực tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá đất nước; góp phần giúp tạo ra một vị trí phù hợp của ta trong chuỗi cung ứng toàn cầu; ưu tiên mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút du khách và nguồn vốn bên ngoài; tiếp thu kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến; bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong quan hệ kinh tế quốc tế...
Ngoại giao văn hóa cần kết hợp chặt chẽ với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, giữ gìn và phát huy hiệu quả bản sắc văn hóa dân tộc nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó góp phần phát triển các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác bền chặt với các nước; nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền và thông tin đối ngoại trong tình hình mới...
Công tác người Việt Nam ở nước ngoài cần bám sát các định hướng và chỉ đạo tại Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, giúp đỡ và tạo điều kiện cho bà con kiều bào phát triển, hội nhập tốt ở nước sở tại, và luôn hướng về Tổ quốc, huy động hiệu quả nguồn lực của kiều bào để góp phần thúc đẩy phát triển đất nước; làm cầu nối góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.
Để đáp ứng tốt yêu cầu công tác đối ngoại ngày càng cao, ngành ngoại giao cần không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao chính quy, hiện đại, đoàn kết, có bản lĩnh chính trị vững vàng theo Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với Đảng, với dân tộc; giỏi về chuyên môn, chủ động, sáng tạo, có khả năng phân tích, dự báo, tham mưu kịp thời, có hiệu quả cho Đảng và Nhà nước trong hoạch định chính sách và triển khai các hoạt động đối ngoại.
Truyền thống vẻ vang của ngành ngoại giao 65 năm qua tiếp thêm niềm tin và sức mạnh cho thế hệ cán bộ hôm nay trên những chặng đường mới. Tiếp nối truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước và với trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, ngành ngoại giao nguyện quyết tâm phấn đấu lập nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
TTXVN xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
Ngoại giao Việt Nam 65 năm: một chặng đường vẻ vang
Ngày 28/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh thành lập Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa gồm 15 bộ, trong đó có Bộ Ngoại giao. Kể từ đó, ngày 28/8 trở thành ngày truyền thống của ngành ngoại giao.
Trong không khí cả nước tưng bừng kỷ niệm 65 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, chuẩn bị tổ chức Đại lễ 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội và đang tiến hành Đại hội Đảng bộ các cấp hướng tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, nhân Ngày truyền thống của ngành ngoại giao, chúng ta tự hào ôn lại những chặng đường lịch sử vẻ vang của ngoại giao Việt Nam.
Sáu mươi lăm năm trước, ngay từ buổi đầu thành lập, ngành ngoại giao đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên cương vị Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên, trực tiếp chỉ đạo, xây dựng và dìu dắt. Mỗi bước trưởng thành và thành tựu của ngành ngoại giao đồng hành cùng đất nước trên những chặng đường vẻ vang của dân tộc 65 năm qua đều in đậm dấu ấn tư tưởng và phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh.
Những năm đầu mới thành lập, dù khó khăn và thiếu thốn mọi bề, nhưng ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo và tham gia trực tiếp của Bác Hồ đã góp phần bảo vệ thành công chính quyền cách mạng non trẻ.
Trong bối cảnh đất nước phải đối phó với thù trong giặc ngoài, sách lược ngoại giao “hòa để tiến” đã tranh thủ thời gian cho Cách mạng củng cố lực lượng, chuẩn bị trường kỳ kháng chiến.
Và cũng chính trong giai đoạn vô cùng khó khăn này của cách mạng Việt Nam, ngoại giao đã rút ra được những bài học đầu tiên nhưng vô cùng quý giá bắt nguồn từ tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.
Đó là bài học về nguyên tắc “đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu,” về chủ trương “thêm bạn, bớt thù,” về phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến,” về sách lược “lợi dụng mâu thuẫn giữa kẻ thù” để từ đó đặt nền móng cho thắng lợi của các thời kỳ tiếp nối.
Trong những năm kháng chiến chống thực dân, ngoại giao đã khắc phục mọi khó khăn, vừa đấu tranh phá vỡ thế bao vây, vừa nỗ lực mở rộng quan hệ và tranh thủ sự ủng hộ và chi viện của bạn bè quốc tế cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta.
Những thắng lợi vang dội trên chiến trường mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu đã đưa đến thắng lợi của Việt Nam tại Hội nghị Geneva về Đông Dương năm 1954, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của nền ngoại giao non trẻ Việt Nam trên trường quốc tế.
Thế giới đã chính thức công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là những quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Một nửa đất nước đã được giải phóng hoàn toàn, tạo cơ sở pháp lý và hậu phương vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất toàn vẹn nước nhà.
Chín năm kháng chiến trường kỳ đã mang lại cho ngành những bài học quý báu về vận động ngoại giao, về tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp chính nghĩa của cách mạng Việt Nam, và đặc biệt, là những bài học về đàm phán đa phương tại một hội nghị quốc tế lớn có liên quan trực tiếp tới vận mệnh dân tộc.
Giai đoạn 1954-1975 đã chứng kiến sự trưởng thành mạnh mẽ của ngoại giao Việt Nam. Dưới ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng, ngoại giao lại tự tin cùng cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc ở miền Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Ngoại giao đã phát huy bài học về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, bạn bè thế giới và đông đảo kiều bào ta ở nước ngoài hình thành một mặt trận toàn cầu giúp đỡ Việt Nam vừa xây dựng đất nước, vừa chiến đấu vì độc lập, thống nhất.
Ngoại giao đã trở thành một mặt trận quan trọng có ý nghĩa chiến lược, phối hợp chặt chẽ với mặt trận quân sự và chính trị để "vừa đánh, vừa đàm" giành thắng lợi từng bước, tiến tới ký kết Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng cho đại thắng Mùa Xuân lịch sử năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sau chiến tranh, ngoại giao tích cực mở rộng quan hệ đối ngoại, huy động các nguồn hợp tác, hỗ trợ từ các nước xã hội chủ nghĩa và bạn bè quốc tế để tái thiết đất nước. Bước vào thời kỳ Đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xác định nhiệm vụ đối ngoại trong thời kỳ mới là tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định cho mục tiêu phát triển kinh tế.
Ngành ngoại giao đã góp phần phá bao vây, cấm vận và chủ động triển khai đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa. Mong muốn “sẵn sàng làm bạn với mọi nước dân chủ” từ ngày đầu lập quốc của Bác đã được ngoại giao triển khai thành công trên tinh thần “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.”
Sau gần 25 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về đối ngoại. Từ chỗ bị bao vây về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay Việ Nam có quan hệ ngoại giao với 179 nước, quan hệ kinh tế-thương mại-đầu tư với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các trung tâm kinh tế - chính trị hàng đầu, các nước bạn bè truyền thống và đối tác tiềm năng ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững hơn.
Việt Nam là thành viên chủ động, tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã đảm đương tốt cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và đang đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010...
Ngoại giao cũng góp phần tích cực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tạo nhiều điều kiện thuận lợi để kiều bào ta ngày càng hướng về Tổ quốc, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Công tác biên giới lãnh thổ đạt nhiều kết quả quan trọng, trong đó nổi bật là việc lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ Việt Nam và Trung Quốc, hai bên đã hoàn thành phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền và ký các văn bản pháp lý liên quan.
Ngày nay, thế giới biết đến Việt Nam không chỉ là dân tộc yêu chuộng hòa bình, quật cường, anh dũng trong chiến tranh, mà còn là đất nước đổi mới thành công, thân thiện, có nhiều tiềm năng, kinh tế phát triển năng động, tích cực tham gia vào các công việc quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Trong những thành tựu đáng tự hào đó của cả dân tộc, có sự đóng góp đáng kể của ngành ngoại giao trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương và doanh nghiệp trong việc triển khai có hiệu quả ba trụ cột đối ngoại là ngoại giao Chính trị, ngoại giao Kinh tế, ngoại giao Văn hóa, kết hợp với công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Bên cạnh những thành tựu về đối ngoại, không thể không nhắc đến những kết quả của công tác xây dựng ngành 65 năm qua. Từ 20 cán bộ trong những ngày đầu thành lập, ngày nay ngoại giao đã trở thành lực lượng đối ngoại chủ lực của đất nước với hơn 2.366 cán bộ, nhân viên ngoại giao vững vàng về bản lĩnh chính trị-tư tưởng, trung thành với Đảng, với Tổ quốc; được đào tạo bài bản về chuyên môn, nghiệp vụ.
Tổ chức bộ máy của ngành ngoại giao ở cả trong và ngoài nước không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Từ chỗ chỉ có bốn phòng chức năng trong những ngày đầu thành lập, hiện nay Bộ Ngoại giao đã có 35 cục, vụ, viện chức năng, một số đơn vị đã được thành lập mới, nâng cấp, kiện toàn tổ chức để đáp ứng yêu cầu công tác mới (như Ủy ban biên giới quốc gia, Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Học viện Ngoại giao, Viện Nghiên cứu chiến lược...).
Hệ thống Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đã phát triển lên 93 cơ quan ở khắp các châu lục. Mạng lưới cơ quan ngoại vụ địa phương đã là 33 sở, 30 phòng và bộ phận thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh trên khắp cả nước, đảm nhiệm ngày càng hiệu quả vai trò "cánh tay nối dài" của ngành ngoại giao ở các địa phương. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu chiến lược không ngừng được nâng cao chất lượng nhằm đáp ứng tốt các nhiệm vụ ngoại giao toàn diện trong bối cảnh mới.
Những thành tựu đối ngoại quan trọng mà ngành đã đạt được trong chặng đường lịch sử 65 năm qua đã được Đảng và Nhà nước ghi nhận và đánh giá cao. Ngành vinh dự và tự hào được trao tặng Huân chương Sao Vàng năm 1995 và Huân chương Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm 65 năm thành lập ngành.
Ngoại giao tiếp tục nỗ lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trong bối cảnh an ninh và phát triển của đất nước ngày càng gắn bó chặt chẽ với môi trường quốc tế, chúng ta cần bám sát tình hình trong nước và đánh giá khách quan bối cảnh quốc tế để xác định được tầm nhìn chiến lược của Ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ mới.
Ở trong nước, đất nước ta về cơ bản đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, chính trị-xã hội ổn định, khối đại đoàn kết dân tộc được mở rộng, an ninh-quốc phòng được giữ vững, quan hệ đối ngoại tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu.
Giai đoạn 2010-2015 sẽ là một giai đoạn có ý nghĩa trọng đại của đất nước, toàn Đảng, toàn dân bước vào triển khai thực hiện Cương lĩnh bổ sung về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chủ động và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, phấn đấu thực hiện mục tiêu tổng quát đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị xã hội ổn định, đồng thuận, dân chủ, kỷ cương; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Trong khi đó, trên thế giới, hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn; toàn cầu hóa tiếp tục gia tăng; châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có ASEAN, tiếp tục phát triển năng động, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống chính trị và kinh tế quốc tế. Đây là những cơ hội để đưa quan hệ quốc tế của ta đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển kinh tế.
Bên cạnh những cơ hội, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Chất lượng phát triển kinh tế-xã hội và sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao; nguy cơ tụt hậu còn lớn, các thế lực chống đối, thù địch và cơ hội chính trị vẫn tăng cường hoạt động. Các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến đổi khí hậu, an ninh tài chính, an ninh năng lượng và lương thực ngày càng nổi lên rõ rệt.
Tình hình mới đòi hỏi ngoại giao phải chủ động và sáng tạo hơn, nhạy bén và hiệu quả hơn, phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng, an ninh, kinh tế, tư tưởng văn hóa... để tạo ra sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.
Trong bối cảnh đó và quán triệt sâu sắc phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến," ngành ngoại giao cần “lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc” và “lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.”
Trong thời gian tới, ngành cần xác định việc phục vụ phát triển kinh tế-xã hội là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời đảm bảo an ninh là mục tiêu quan trọng thường trực. Mục tiêu nâng cao vị thế quốc tế có ý nghĩa quan trọng và lâu dài, nhất là khi đất nước đang hội nhập sâu rộng.
Để thực hiện các mục tiêu đó, cần tiếp tục đẩy mạnh nền ngoại giao toàn diện dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, huy động sự tham gia sâu rộng của các ngành, các cấp, các địa phương, dưới nhiều hình thức, biện pháp, hướng tới nhiều đối tác, trên nhiều địa bàn, phù hợp với lợi ích an ninh và phát triển của đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa ngoại giao Nhà nước với đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân, dựa trên ba trụ cột ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa, kết hợp với công tác người Việt Nam ở nước ngoài, đặt các lĩnh vực này trong mối quan hệ tổng hòa, tác động qua lại, đan xen lẫn nhau, với những bước đi mạnh mẽ và vững chắc.
Ngoại giao chính trị cần không ngừng phát triển các mối quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước láng giềng, các khu vực, coi trọng quan hệ với các nước lớn; chủ động đưa quan hệ với tất cả các đối tác đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững, tăng cường xây dựng và củng cố lòng tin trong quan hệ đối ngoại; kiên định mục tiêu bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia; tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm vào các tổ chức và diễn đàn quốc tế.
Ngoại giao kinh tế cần tham gia làm tốt công tác dự báo, tham mưu cho Đảng và Nhà nước điều hành nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Đồng thời, cần chủ động, tích cực tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hoá đất nước; góp phần giúp tạo ra một vị trí phù hợp của ta trong chuỗi cung ứng toàn cầu; ưu tiên mở rộng thị trường xuất khẩu, thu hút du khách và nguồn vốn bên ngoài; tiếp thu kỹ thuật công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến; bảo vệ lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp trong quan hệ kinh tế quốc tế...
Ngoại giao văn hóa cần kết hợp chặt chẽ với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế, giữ gìn và phát huy hiệu quả bản sắc văn hóa dân tộc nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, qua đó góp phần phát triển các mối quan hệ hữu nghị và hợp tác bền chặt với các nước; nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền và thông tin đối ngoại trong tình hình mới...
Công tác người Việt Nam ở nước ngoài cần bám sát các định hướng và chỉ đạo tại Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị, giúp đỡ và tạo điều kiện cho bà con kiều bào phát triển, hội nhập tốt ở nước sở tại, và luôn hướng về Tổ quốc, huy động hiệu quả nguồn lực của kiều bào để góp phần thúc đẩy phát triển đất nước; làm cầu nối góp phần củng cố và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước.
Để đáp ứng tốt yêu cầu công tác đối ngoại ngày càng cao, ngành ngoại giao cần không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ ngoại giao chính quy, hiện đại, đoàn kết, có bản lĩnh chính trị vững vàng theo Chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với Đảng, với dân tộc; giỏi về chuyên môn, chủ động, sáng tạo, có khả năng phân tích, dự báo, tham mưu kịp thời, có hiệu quả cho Đảng và Nhà nước trong hoạch định chính sách và triển khai các hoạt động đối ngoại.
Truyền thống vẻ vang của ngành ngoại giao 65 năm qua tiếp thêm niềm tin và sức mạnh cho thế hệ cán bộ hôm nay trên những chặng đường mới. Tiếp nối truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước và với trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, ngành ngoại giao nguyện quyết tâm phấn đấu lập nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
(TTXVN/Vietnam+)