Ngày 6/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký ban hành Nghị quyết về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010.
Nghị quyết nêu rõ, năm 2010 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 đồng thời cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, trong đó nổi bật và quan trọng nhất là Đại hội Đảng các cấp tiến đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2010 không chỉ có ý nghĩa quan trọng để góp phần hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục duy trì ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và các tiền đề cho phát triển đất nước trong giai đoạn tới.
Tình hình kinh tế-xã hội 3 tháng đầu năm 2010 đã có những chuyển biến tích cực, đạt mức tăng trưởng khá trên hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; thị trường trong nước phát triển tốt, doanh thu bán lẻ tăng; đầu tư phát triển được đẩy mạnh; du lịch quốc tế tăng; an sinh xã hội được bảo đảm; thu ngân sách đạt khá; giá cả có tăng so với cùng kỳ một số năm nhưng vẫn trong tầm kiểm soát.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế vĩ mô đã có một số biểu hiện chưa ổn định, đòi hỏi phải có những giải pháp điều chỉnh kịp thời để thực hiện được các mục tiêu kế hoạch đề ra cho năm 2010.
Để thực hiện được mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2010 theo Nghị quyết kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 12 và Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15/1/2010, Chính phủ xác định phải tập trung nỗ lực huy động các nguồn lực của toàn xã hội để thực hiện yêu cầu bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao, đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 6,5% trong năm 2010.
Nhằm đạt được mục tiêu trên, một trong những giải pháp ưu tiên được thực hiện là tập trung kiềm chế lạm phát. Nghị quyết yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng; bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 25% và tổng phương tiện thanh toán khoảng 20%.
Ngân hàng Nhà nước chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng và năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng; bảo đảm lượng tiền trong lưu thông hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển và điều kiện thực tế của thị trường tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất để giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường.
Bộ Công thương rà soát, đánh giá tình hình cung-cầu các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống, trước hết là các mặt hàng thiết yếu như gạo, đường, sữa, thuốc chữa bệnh, thức ăn chăn nuôi, phân bón, xăng dầu, ximăng, thép…; tổ chức thị trường hợp lý nhằm bảo đảm hàng hoá lưu thông thuận lợi, tiết kiệm chi phí.
Giải pháp tiếp theo là thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ với lãi suất giữa tiền Việt Nam và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, huy động được các nguồn ngoại tệ hiện chưa thu hút được từ doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, kiều hối, tiền gửi từ bên ngoài vào Việt Nam, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại hối.
Nghị quyết giao Bộ Công thương tổ chức triển khai các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6% và tỷ lệ nhập siêu khoảng 20% trong năm 2010.
Các giải pháp còn lại là bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội; bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính-ngân hàng; tiếp tục thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh./.
Nghị quyết nêu rõ, năm 2010 là năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 đồng thời cũng là năm diễn ra nhiều sự kiện quan trọng của đất nước, trong đó nổi bật và quan trọng nhất là Đại hội Đảng các cấp tiến đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2010 không chỉ có ý nghĩa quan trọng để góp phần hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục duy trì ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và các tiền đề cho phát triển đất nước trong giai đoạn tới.
Tình hình kinh tế-xã hội 3 tháng đầu năm 2010 đã có những chuyển biến tích cực, đạt mức tăng trưởng khá trên hầu hết các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ; thị trường trong nước phát triển tốt, doanh thu bán lẻ tăng; đầu tư phát triển được đẩy mạnh; du lịch quốc tế tăng; an sinh xã hội được bảo đảm; thu ngân sách đạt khá; giá cả có tăng so với cùng kỳ một số năm nhưng vẫn trong tầm kiểm soát.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế vĩ mô đã có một số biểu hiện chưa ổn định, đòi hỏi phải có những giải pháp điều chỉnh kịp thời để thực hiện được các mục tiêu kế hoạch đề ra cho năm 2010.
Để thực hiện được mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2010 theo Nghị quyết kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 12 và Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15/1/2010, Chính phủ xác định phải tập trung nỗ lực huy động các nguồn lực của toàn xã hội để thực hiện yêu cầu bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao, đạt tốc độ tăng trưởng khoảng 6,5% trong năm 2010.
Nhằm đạt được mục tiêu trên, một trong những giải pháp ưu tiên được thực hiện là tập trung kiềm chế lạm phát. Nghị quyết yêu cầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng; bảo đảm tốc độ tăng trưởng tín dụng khoảng 25% và tổng phương tiện thanh toán khoảng 20%.
Ngân hàng Nhà nước chủ động áp dụng các biện pháp cần thiết để nâng cao hiệu quả, chất lượng tín dụng và năng lực tài chính của các tổ chức tín dụng; bảo đảm lượng tiền trong lưu thông hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm phù hợp với mục tiêu phát triển và điều kiện thực tế của thị trường tài chính, tiền tệ và nền kinh tế. Sử dụng linh hoạt các công cụ lãi suất để giảm dần mặt bằng lãi suất thị trường.
Bộ Công thương rà soát, đánh giá tình hình cung-cầu các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống, trước hết là các mặt hàng thiết yếu như gạo, đường, sữa, thuốc chữa bệnh, thức ăn chăn nuôi, phân bón, xăng dầu, ximăng, thép…; tổ chức thị trường hợp lý nhằm bảo đảm hàng hoá lưu thông thuận lợi, tiết kiệm chi phí.
Giải pháp tiếp theo là thúc đẩy xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, cải thiện cán cân thanh toán.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ với lãi suất giữa tiền Việt Nam và ngoại tệ, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác theo hướng ổn định, góp phần khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu, huy động được các nguồn ngoại tệ hiện chưa thu hút được từ doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư, kiều hối, tiền gửi từ bên ngoài vào Việt Nam, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tạo điều kiện để tăng dự trữ ngoại hối.
Nghị quyết giao Bộ Công thương tổ chức triển khai các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ để bảo đảm tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đạt trên 6% và tỷ lệ nhập siêu khoảng 20% trong năm 2010.
Các giải pháp còn lại là bảo đảm nguồn lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội; bảo đảm ổn định, an toàn của hệ thống tài chính-ngân hàng; tiếp tục thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh./.
(TTXVN/Vietnam+)