Tại kỳ họp thứ 8,Quốc hội khóa XII đã thông qua Dự toán Ngân sách Nhà nước giai đoạn2011-2015 theo đề nghị của Chính phủ, gồm 15 Chương trình mục tiêu Quốcgia trong đó có chương trình Dân số/kế hoạch hóa gia đình. Theo đó, chương trình dân số tiếp tụcđược đầu tư xứng tầm với nhiệm vụ đặt ra trong sự nghiệp công nghiệp hóavà hiện đại hóa đất nước nhưng cũng đặt ra trọng trách lớn đối vớingành dân số.
Mức sinh còn biến động khó lường
Tuy đã đạt mức sinh thay thế, nhưng mức sinh có thể tăngtrở lại, nguyên nhân là do phong tục tập quán, tư tưởng muốn có đôngcon, phải có con trai còn rất nặng nề của người dân trong xã hội nôngnghiệp (dân số nông thôn chiếm tới 70,4%).
Hiện số phụ nữ trong độ tuổisinh đẻ tiếp tục tăng nhanh, sẽ đạt cực đại vào năm 2020-2025; còn28/63 tỉnh, thành (chiếm 34,4% dân số cả nước) chưa đạt mức sinh thaythế. Nếu chính quyền, ngành dân số lơ là, chủ quan thì mứcsinh sẽ rất dễ tăng trở lại.
Mất cân bằng giới tính khi sinh bước vào mức cao
Một vấn đề mới xuất hiện trong công tác dân số là tỷ suấtgiới tính khi sinh đã tăng nhanh một cách bất thường. Tỷ suấtgiới tính khi sinh làsố bé trai/100 bé gái, bình thường dao động trong khoảng từ 103/100 đến106/100. Qua ba cuộc Tổng điều tra dân số trước đây, tỷ suấtgiới tính khi sinh đã tăng từ105/100 (1979) lên 106/100 (1989) và 107/100 (1999).
Nhưng từ năm 2006đến nay, tỷ suấtgiới tính khi sinh tăng cao và nhanh liên tục từ 110/100 (2006) lên 111/100(2007) và 112/100 (2008). Các chuyên gia quốc tế đã nhận xét, tỷ suấtgiới tính khi sinhtăng ở những nước có nền văn hoá tương đồng (ưa thích sinh con trai hơncon gái) như Việt Nam nhưng chưa có nước nào lại có tốc độ gia tăngnhanh như ở Việt Nam. Nếu không có giải pháp tích cực, sự mất cấn bằnggiới tính sẽ để lại những hệ luỵ nặng nề, gây khó khăn trong việc xâydựng gia đình của các thế hệ tương lai và tác động xấu đến trật tự, anninh xã hội.
Vấn đề già hóa dân số
Các nước trên thế giới phải trải qua nhiều thập kỷ, nhưngViệt Nam chỉ qua ba năm, từ 2005 đến 2008, đã chuyển từ cơ cấu dân số trẻsang giai đoạn già hóa dân số. Vì thế, chúng ta chưa chuẩn bị tốt choviệc thích ứng với giai đoạn già hoá dân số, nhất là chế độ an sinh xãhội cho người cao tuổi.
Các nhà khoa học đã tính toán, nếu việc chăm sócsức khoẻ cho một đứa trẻ chỉ tốn 1 đồng thì việc chăm sóc 1 người caotuổi phải cần tới 8 đồng.
Chất lượng dân số thấp
Tỷ lệ trẻ em mới sinh bị dị tật bẩm sinh do di truyềnchiếm tới 3% và xu hướng tiếp tục gia tăng do điều kiện sống, môi trườngđộc hại, lối sống hoặc phong tục, tập quán lạc hậu. Nếu không có biệnpháp ngăn chặn trong việc dự phòng và điều trị sớm một số bệnh thì tỷ lệnày có khả năng sẽ tiếp tục tăng cao và để lại hậu quả nặng nề cho giađình và xã hội.
Các nước trên thế giới đã tiến hành sàng lọc trước sinh,sàng lọc sơ sinh để nâng cao chất lượng giống nòi từ cách đây trên50 năm, nhưng Việt Nam mới bắt đầu thử nghiệm được 3 năm.
Chỉ số phát triển con người tuy đạt mức trung bình là0,725 điểm, nhưng thứ bậc xếp hạng là 116 và không đổi so với 182 nướctham gia xếp hạng. Tuổi thọ bình quân là 72,8 tuổi, nhưng tuổi thọ bìnhquân khoẻ mạnh rất thấp, chỉ là 66 tuổi.
Tỷ suất tử vong mẹ, tỷ suất tử vong sơsinh, tỷ suất tử vong trẻ em, tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em còn khá cao và cósự cách biệt giữa các vùng miền. Tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đườngsinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục cũng cao./.