Tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV, chiều 12/11, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải, các đại biểu Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022 với 472/472 đại biểu tham gia bỏ phiếu tán thành.
Làm rõ băn khoăn về chỉ tiêu GDP
Trước đó, Quốc hội đã nghe Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2022. Theo đó, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội đồng ý với mục tiêu tổng quát.
Về các chỉ tiêu chủ yếu, một số ý kiến đại biểu Quốc hội cho rằng mức tăng trưởng GDP khoảng 6-6,5% khó hoàn thành; nên đặt mức tăng trưởng GDP khoảng 5-5,5%.
Quan điểm của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2022 được xây dựng trên cơ sở phân tích, dự báo bối cảnh tình hình trong nước, quốc tế, có tính đến những yếu tố thuận lợi, khó khăn của năm 2021 trên nền tăng trưởng thấp (khoảng 2%), bám sát định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm.
[Thông qua Nghị quyết về kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế 2021-2025]
Việc đặt chỉ tiêu khoảng 6-6,5% thể hiện quyết tâm cao của Chính phủ, đồng thời để bảo đảm hài hòa, linh hoạt trong thực hiện các mục tiêu năm 2022, do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo.
Có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị cần xây dựng lại một số chỉ tiêu kinh tế với các kịch bản tăng trưởng ở các mức độ khác nhau; đặt mục tiêu cao hơn đối với chỉ tiêu lao động qua đào tạo; tăng tỷ lệ bội chi lên 5% GDP.
Theo giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban cùng với Chính phủ đang khẩn trương xây dựng Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội, Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19, trong đó có nội dung cân đối ngân sách và bội chi, sẽ sớm trình Quốc hội xem xét.
Việc xây dựng kịch bản tăng trưởng, các chỉ tiêu chủ yếu đã được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng, vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Nghị quyết.
Đa số ý kiến đại biểu Quốc hội tán thành với các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nêu trong dự thảo Nghị quyết.
Báo cáo cũng đã giải trình, làm rõ một số ý kiến của đại biểu Quốc hội như đề nghị bổ sung vào dự thảo Nghị quyết một giải pháp riêng về y tế, giải pháp về kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19; bổ sung nội dung về cải cách tiền lương; điều chỉnh mức lương cơ sở, lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội; bổ sung về các dự án cụ thể như dự án xây dựng đường cao tốc Sóc Trăng-Cần Thơ-Châu Đốc; dự án đường cao tốc Hà Nội-Hòa Bình-Mộc Châu; cao tốc Phú Thọ-Tuyên Quang-Hà Giang; các tuyến đường kết nối với Tây Nguyên; luồng sông Hậu (Kênh Quan Chánh Bố); tập trung đầu tư các dự án giao thông cho các tỉnh phía Nam…
15 nhóm chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2022
Nghị quyết gồm 4 điều, trong đó đề ra 15 chỉ tiêu phát triển chủ yếu, gồm: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) khoảng 6-6,5%; GDP bình quân đầu người đạt 3.900 USD; Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 25,5-25,8%; Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân khoảng 5,5%; Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội đạt 27,5%.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 67%, trong đó có bằng, chứng chỉ đạt khoảng 27-27,5%; Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo đa chiều) giảm khoảng 1-1,5%; Số bác sỹ trên 1 vạn dân đạt 9,4 bác sỹ; Số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt 29,5 giường bệnh; Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt 92% dân số; Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 73%; Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 89%; Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 91%.
Quốc hội cơ bản tán thành các nhiệm vụ, giải pháp do chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình và các cơ quan của Quốc hội kiến nghị, đồng thời đề nghị chính phủ và các cơ quan liên quan thực hiện tốt 12 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu.
Các nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu gồm: Tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch COVID-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế-xã hội; Xây dựng, hoàn thiện thể chế và tổ chức thi hành pháp luật; Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số; Phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; Nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực gắn với đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo; Thúc đẩy phát triển liên kết vùng, khu kinh tế và phát triển đô thị, kinh tế đô thị, đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch; Phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, cùng với phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam; Quản lý, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, đi cùng với tăng cường bảo vệ môi trường, đi cùng với chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đồng thời đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; Củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, cùng với kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần củng cố vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; Đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tạo đồng thuận xã hội./.