Một nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ mới đây cho thấy, trẻ em tiếp xúc với điện thoại di động từ trong bụng mẹ và sau khi chào đời có nguy cơ cao về vấn đề ứng xử.
Nghiên cứu này được thực hiện thông qua việc khảo sát gần 29.000 trẻ em và nhận thấy có sự ảnh hưởng của điện từ từ các thiết bị tới hành vi của trẻ khi chúng lên 7.
Những phát hiện này đã khẳng định lại kết quả của cuộc khảo sát từ năm 2008 ở 13.000 trẻ em được thực hiện bởi cùng các nhà nghiên cứu Mỹ.
"Kết quả mới cho thấy rằng, những phát hiện trước đó không phải là may rủi," tác giả chính Leeka Kheifets, một nhà dịch tễ học tại Trường Y tế công cộng Đại học California, Los Angeles cho biết.
Bà nhấn mạnh rằng, những phát hiện đã đưa ra giả thuyết, nhưng không chứng minh, có sự liên quan giữa việc tiếp xúc với điện thoại di động và các vấn đề về hành vi sau này của trẻ em.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu về 28.745 trẻ theo học tại trường Danish National Birth Cohort (DNBC), Đan Mạch - những dữ liệu này theo dõi sức khỏe của 100.000 trẻ em nước này sinh ra giữa những năm 1996 và 2002 cũng như sức khỏe của các bà mẹ sinh ra chúng. Gần một nửa trong số này không tiếp xúc với điện thoại di động dưới bất kỳ hình thức nào và đây là nhóm trẻ phần lớn có hành vi tốt.
Dữ liệu cũng bao gồm một bản điều tra dành cho các bà mẹ, họ điền vào bản này khi con cái họ bước sang tuổi thứ 7. Nội dung bản điều tra là về lối sống của gia đình, các bệnh của bé và việc trẻ sử dụng điện thoại ra sao. Ngoài ra, có một số câu hỏi khác liên quan tới vấn đề sức khỏe. Bản điều tra cũng bao gồm các bài test để xác định các vấn đề về hành vi ứng xử và cảm xúc, việc thiếu tập trung hay hiếu động quá, hoặc các vấn đề với những đứa trẻ khác.
Dựa trên những kết quả này, các nhà nghiên cứu sẽ chia các bé ra làm ba nhóm: bình thường, bất thường và nhóm giữa hai nhóm này.
Sau khi phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu thấy rằng, 18% trẻ em đã tiếp xúc với điện thoại di động trước và sau khi sinh, tăng 10% so với nghiên cứu năm 2008, và 35% những đứa trẻ 7 tuổi từng sử dụng di động, tăng 3,5% so với năm 2008.
Sau đó, nhóm nghiên cứu xem xét việc tiếp xúc của trẻ với điện thoại lúc trong bụng và sau khi ra đời, trọng lượng lúc sinh và bé có sinh thiếu tháng hay không; các vấn đề tiền sử của bố mẹ thời niên thiếu như cảm xúc, sự tập trung, việc học tập; việc sử dụng thuốc lá, rượu hay má túy khi mang thai; việc cho con bú trong sáu tháng đầu đời và thời gian các bà mẹ dành cho con mỗi ngày.
So sánh với những đứa trẻ không tiếp xúc với di động, có tới 50% trẻ tiếp xúc cả trước và sau khi sinh thể hiện các vấn đề về hành vi. Trẻ tiếp xúc với di động trong bụng mẹ, nhưng sau khi sinh thì không, có nguy cơ cao (40%) thuộc nhóm giữa của bình thường và bất bình thường; ngược lại, trẻ chỉ tiếp xúc với di động sau khi sinh thì có 20% nguy cơ thuộc nhóm giữa.
Andrew Adesman, Trưởng khoa Nhi (chuyên về hành vi và sự phát triển) tại bệnh viên trẻ em Schneider tại New Hyde Park, New York, Mỹ đánh giá rất cao kết quả nghiên cứu này.
Một vài nghiên cứu cho thấy tác hại của di động tới sức khỏe con người nhưng mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động và các vấn đề về sức khỏe, bao gồm cả ung thư và u não, vẫn chưa có những chứng minh mang tính thuyết phục.
Trong vài năm vừa qua, những nguồn năng lượng sóng vô tuyến mới, như mạng wireless và nhận dạng tần số sóng vô tuyến (RFID) được sử dụng để theo dõi sản phẩm, thu phí trên đường cao tốc và tăng tốc độ thanh toán, đã ngày càng trở nên phổ biến.
Theo bà Kheifets, các bà bầu không thể tránh được việc sử dụng điện thoại di động, nhưng để hạn chế những tác hại không mong muốn, họ có thể sử dụng loa ngoài hay tai nghe và để thiết bị nằm xa cơ thể hoặc đầu.
Tiến sĩ Adesman cũng đồng quan điểm: “Một cách bảo thủ và cẩn thận nhất có lẽ là cho cả bà bầu và trẻ em hạn chế tiếp xúc với điện thoại di động. Các nguy cơ có vẻ rất nhỏ nhưng dù sao cũng phải lưu tâm.”
Bà Leeka Kheifets cho biết thêm: “Mặc dù hiện tại là quá sớm để giải thích những kết quả này nhưng chúng tôi lo ngại rằng việc sớm tiếp xúc với điện thoại di động có thể kéo theo nhiều nguy cơ, mà nếu thực sự có, thì ngành y tế công cộng sẽ phải chú ý tới sự phổ biến rộng rãi của việc sử dụng công nghệ.”
Cũng theo bà và đồng nghiệp, những nghiên cứu sâu hơn sau này là điều cần thiết để khẳng định hay bác bỏ những kết quả này.
Nghiên cứu được đăng trên trang tạp chí online Journal of Epidemiology and Community Health./.
Nghiên cứu này được thực hiện thông qua việc khảo sát gần 29.000 trẻ em và nhận thấy có sự ảnh hưởng của điện từ từ các thiết bị tới hành vi của trẻ khi chúng lên 7.
Những phát hiện này đã khẳng định lại kết quả của cuộc khảo sát từ năm 2008 ở 13.000 trẻ em được thực hiện bởi cùng các nhà nghiên cứu Mỹ.
"Kết quả mới cho thấy rằng, những phát hiện trước đó không phải là may rủi," tác giả chính Leeka Kheifets, một nhà dịch tễ học tại Trường Y tế công cộng Đại học California, Los Angeles cho biết.
Bà nhấn mạnh rằng, những phát hiện đã đưa ra giả thuyết, nhưng không chứng minh, có sự liên quan giữa việc tiếp xúc với điện thoại di động và các vấn đề về hành vi sau này của trẻ em.
Các nhà nghiên cứu đã sử dụng dữ liệu về 28.745 trẻ theo học tại trường Danish National Birth Cohort (DNBC), Đan Mạch - những dữ liệu này theo dõi sức khỏe của 100.000 trẻ em nước này sinh ra giữa những năm 1996 và 2002 cũng như sức khỏe của các bà mẹ sinh ra chúng. Gần một nửa trong số này không tiếp xúc với điện thoại di động dưới bất kỳ hình thức nào và đây là nhóm trẻ phần lớn có hành vi tốt.
Dữ liệu cũng bao gồm một bản điều tra dành cho các bà mẹ, họ điền vào bản này khi con cái họ bước sang tuổi thứ 7. Nội dung bản điều tra là về lối sống của gia đình, các bệnh của bé và việc trẻ sử dụng điện thoại ra sao. Ngoài ra, có một số câu hỏi khác liên quan tới vấn đề sức khỏe. Bản điều tra cũng bao gồm các bài test để xác định các vấn đề về hành vi ứng xử và cảm xúc, việc thiếu tập trung hay hiếu động quá, hoặc các vấn đề với những đứa trẻ khác.
Dựa trên những kết quả này, các nhà nghiên cứu sẽ chia các bé ra làm ba nhóm: bình thường, bất thường và nhóm giữa hai nhóm này.
Sau khi phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu thấy rằng, 18% trẻ em đã tiếp xúc với điện thoại di động trước và sau khi sinh, tăng 10% so với nghiên cứu năm 2008, và 35% những đứa trẻ 7 tuổi từng sử dụng di động, tăng 3,5% so với năm 2008.
Sau đó, nhóm nghiên cứu xem xét việc tiếp xúc của trẻ với điện thoại lúc trong bụng và sau khi ra đời, trọng lượng lúc sinh và bé có sinh thiếu tháng hay không; các vấn đề tiền sử của bố mẹ thời niên thiếu như cảm xúc, sự tập trung, việc học tập; việc sử dụng thuốc lá, rượu hay má túy khi mang thai; việc cho con bú trong sáu tháng đầu đời và thời gian các bà mẹ dành cho con mỗi ngày.
So sánh với những đứa trẻ không tiếp xúc với di động, có tới 50% trẻ tiếp xúc cả trước và sau khi sinh thể hiện các vấn đề về hành vi. Trẻ tiếp xúc với di động trong bụng mẹ, nhưng sau khi sinh thì không, có nguy cơ cao (40%) thuộc nhóm giữa của bình thường và bất bình thường; ngược lại, trẻ chỉ tiếp xúc với di động sau khi sinh thì có 20% nguy cơ thuộc nhóm giữa.
Andrew Adesman, Trưởng khoa Nhi (chuyên về hành vi và sự phát triển) tại bệnh viên trẻ em Schneider tại New Hyde Park, New York, Mỹ đánh giá rất cao kết quả nghiên cứu này.
Một vài nghiên cứu cho thấy tác hại của di động tới sức khỏe con người nhưng mối liên hệ giữa việc sử dụng điện thoại di động và các vấn đề về sức khỏe, bao gồm cả ung thư và u não, vẫn chưa có những chứng minh mang tính thuyết phục.
Trong vài năm vừa qua, những nguồn năng lượng sóng vô tuyến mới, như mạng wireless và nhận dạng tần số sóng vô tuyến (RFID) được sử dụng để theo dõi sản phẩm, thu phí trên đường cao tốc và tăng tốc độ thanh toán, đã ngày càng trở nên phổ biến.
Theo bà Kheifets, các bà bầu không thể tránh được việc sử dụng điện thoại di động, nhưng để hạn chế những tác hại không mong muốn, họ có thể sử dụng loa ngoài hay tai nghe và để thiết bị nằm xa cơ thể hoặc đầu.
Tiến sĩ Adesman cũng đồng quan điểm: “Một cách bảo thủ và cẩn thận nhất có lẽ là cho cả bà bầu và trẻ em hạn chế tiếp xúc với điện thoại di động. Các nguy cơ có vẻ rất nhỏ nhưng dù sao cũng phải lưu tâm.”
Bà Leeka Kheifets cho biết thêm: “Mặc dù hiện tại là quá sớm để giải thích những kết quả này nhưng chúng tôi lo ngại rằng việc sớm tiếp xúc với điện thoại di động có thể kéo theo nhiều nguy cơ, mà nếu thực sự có, thì ngành y tế công cộng sẽ phải chú ý tới sự phổ biến rộng rãi của việc sử dụng công nghệ.”
Cũng theo bà và đồng nghiệp, những nghiên cứu sâu hơn sau này là điều cần thiết để khẳng định hay bác bỏ những kết quả này.
Nghiên cứu được đăng trên trang tạp chí online Journal of Epidemiology and Community Health./.
(Đẹp/Vietnam+)