Những điểm ưu tiên của nền kinh tế thời COVID-19

Các chuyên gia dự đoán dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp COVID-19 sẽ tiếp tục thúc đẩy những thay đổi lớn trong mô hình tiêu thụ và sản xuất, từ đó sẽ mang lại sự chuyển đổi cơ cấu rộng lớn hơn.
Nông dân thu hoạch lúa trên cánh đồng ở Chiang Mai, Thái Lan. (Ảnh: AFP/TTXVN)
Nông dân thu hoạch lúa trên cánh đồng ở Chiang Mai, Thái Lan. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Trang mạng dailymaverick.co.za ngày 2/7 đăng bài phân tích về những điểm ưu tiên của nền kinh tế COVID-19 của Giáo sư Joseph E. Stiglitz thuộc trường Đại học Columbia, người từng đạt giải Nobel về khoa học kinh tế (2001) và là nhà kinh tế trưởng tại Viện Roosevelt, cựu Phó Chủ tịch cao cấp và kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (WB).

Theo tác giả bài viết, mới đây, các nền kinh tế trên thế giới đã bắt đầu đóng cửa để đối phó với đại dịch COVID-19.

Vào đầu cuộc khủng hoảng, hầu hết mọi người dự đoán sự phục hồi nhanh chóng hình chữ V, với giả định rằng nền kinh tế chỉ cần một khoảng thời gian ngắn để trở lại bình thường và sau 2 tháng, với rất nhiều quan tâm và khối lượng lớn tiền của tiêu tốn cho đại dịch, nền kinh tế có thể tái hồi phục.

Đó là một ý tưởng hấp dẫn. Tuy nhiên, hiện tại đã là tháng 7/2020 và sự phục hồi hình chữ V có lẽ chỉ là một ảo tưởng. Nền kinh tế hậu đại dịch có khả năng sẽ ở tình trạng “thiếu máu.”

Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) dự đoán đến cuối năm 2021, nền kinh tế toàn cầu sẽ chỉ nhỉnh hơn không đáng kể so với cuối năm 2019, trong khi các nền kinh tế Mỹ và châu Âu sẽ có quy mô nhỏ hơn khoảng 4% so với trước đại dịch.

Triển vọng kinh tế hiện tại có thể được xem xét trên hai cấp độ. Xét theo phương diện kinh tế học vĩ mô, chi tiêu sẽ giảm do các bảng cân đối yếu hơn của các hộ gia đình và các công ty, tình trạng phá sản hàng loạt làm hủy hoại dòng vốn, cũng như hành vi phòng ngừa cao độ do sự không chắc chắn của diễn biến đại dịch và chính sách đối phó với COVID-19.

Đồng thời, theo phương diện kinh tế học vi mô, SARS-CoV-2 giống như một loại thuế nhằm vào các tiếp xúc gần gũi của con người. Vì vậy, COVID-19 sẽ tiếp tục thúc đẩy những thay đổi lớn trong mô hình tiêu thụ và sản xuất, từ đó sẽ mang lại sự chuyển đổi cơ cấu rộng lớn hơn.

Cả lịch sử và lý thuyết kinh tế chỉ ra rằng tự thân các thị trường sẽ không phù hợp để điều tiết quá trình chuyển đổi như vậy, đặc biệt là trong bối cảnh sự xuất hiện đột ngột của đại dịch.

Không có cách dễ dàng nào để chuyển đổi những nhân viên hàng không thành các kỹ thuật viên nền tảng trực tuyến Zoom. Và ngay cả khi chúng ta có thể làm được điều đó, các lĩnh vực hiện đang mở rộng lại sử dụng ít lao động và đòi hỏi nhiều nhiều kỹ năng hơn so với các ngành mà những lĩnh vực mới này đang thay thế.

Các biến đổi cấu trúc có xu hướng tạo ra “vấn đề Keynes truyền thống,” bởi những gì các nhà kinh tế gọi là các hiệu ứng thu nhập và thay thế.

Thậm chí các lĩnh vực không đòi hỏi tiếp xúc giữa con người đang mở rộng - cho thấy những tiến bộ về sức hấp dẫn tương đối của những lĩnh vực này, mức tăng chi tiêu liên quan sẽ vượt trội hơn so với việc giảm chi tiêu - dẫn đến sụt giảm thu nhập trong những lĩnh vực bị thu hẹp.

Hơn nữa, trong bối cảnh hiện nay, đại dịch COVID-19 sẽ dẫn đến một tác động thứ ba: Bất bình đẳng gia tăng.

Do không bị nhiễm SARS-CoV-2, các loại máy móc sẽ trở nên tương đối hấp dẫn hơn đối với người sử dụng lao động, đặc biệt là trong các lĩnh vực hợp đồng sử dụng lao động không đòi hỏi có kỹ năng cao.

Những điểm ưu tiên của nền kinh tế thời COVID-19 ảnh 1Toàn cảnh cảng hàng hóa ở thị xã Thái Thương, tỉnh Giang Tô, miền Đông Trung Quốc ngày 30/10/2019. (Ảnh: THX/TTXVN)

Do những người có thu nhập thấp phải dành tỷ lệ nhiều hơn của thu nhập để mua sắm hàng hóa cơ bản so với những người nhóm trên, bất kỳ sự gia tăng bất bình đẳng nào do tự động hóa sẽ dẫn đến cắt giảm chi tiêu.

Xét tổng thể, đang có hai nguyên nhân bổ sung khiến tình hình trở nên bi quan.

[Doanh nghiệp Nhật Bản thiệt hại nặng tại thị trường Hàn Quốc]

Thứ nhất, trong khi chính sách tiền tệ có thể giúp một số công ty giải quyết các hạn chế thanh khoản tạm thời – như đã xảy ra trong cuộc Đại Suy thoái 2008-2009, chính sách này không thể khắc phục các vấn đề về khả năng thanh toán, cũng như không thể kích thích nền kinh tế khi lãi suất đã gần bằng không.

Hơn nữa, tại Mỹ và một số quốc gia khác, sự phản đối của “phe bảo thủ” đối với các khoản thâm hụt và mức nợ gia tăng sẽ cản trở các biện pháp kích thích tài khóa cần thiết.

Chắc chắn nhóm người này đã rất vui vẻ khi cắt giảm các khoản thuế của các tỷ phú và tập đoàn vào năm 2017, bảo lãnh cho Phố Wall vào năm 2008 và hỗ trợ các siêu tập đoàn trong năm 2020.

Tuy nhiên, đó là một điểm khác để mở rộng bảo hiểm thất nghiệp, chăm sóc sức khỏe và hỗ trợ bổ sung cho những người dễ bị tổn thương nhất.

Kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng, các ưu tiên ngắn hạn đã rõ ràng. Trước tiên, phải giải quyết tình trạng khẩn cấp về y tế (chẳng hạn như bằng cách đảm bảo cung cấp đầy đủ thiết bị bảo vệ cá nhân và khả năng của bệnh viện), bởi vì không thể phục hồi kinh tế cho đến khi có thể kiểm soát được COVID-19.

Đồng thời, các chính sách để bảo vệ những người đang cần hỗ trợ nhất, cung cấp thanh khoản để ngăn chặn các vụ phá sản không cần thiết và duy trì các liên kết giữa người lao động và công ty là điều cần thiết để đảm bảo có thể nhanh chóng tái khởi động hoạt động khi điều kiện cho phép.

Tuy nhiên, ngay cả với những yếu tố tối cần thiết rõ ràng này trong chương trình nghị sự, vẫn có những lựa chọn khó thực hiện.

Không nên bảo lãnh cho các công ty - như các nhà bán lẻ cũ - đã thoái trào trước khủng hoảng COVID-19; làm như vậy chỉ đơn thuần là tạo ra những công ty zombie ("xác sống"), tức là các công ty làm ăn kém hiệu quả, qua đó hạn chế sự năng động và tăng trưởng.

Cũng không nên bảo lãnh cho các công ty đã có khối lượng nợ lớn và không thể chịu được bất kỳ cú sốc nào.

Quyết định của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nhằm hỗ trợ thị trường trái phiếu rác thông qua chương trình mua tài sản gần như là một sai lầm. Đây là một ví dụ trong đó rủi ro đạo đức thực sự là một mối quan tâm có liên quan; các chính phủ không nên bảo vệ các công ty khỏi sự điên rồ của chính họ.

Trước thực tế, COVID-19 có vẻ sẽ song hành cùng chúng ta trong thời gian dài, cần đảm bảo rằng việc chi tiêu phản ánh các ưu tiên thực tế.

Khi đại dịch bùng phát, xã hội Mỹ bị đe dọa bởi sự bất bình đẳng về chủng tộc và kinh tế, các tiêu chuẩn y tế giảm sút và sự phụ thuộc một cách hủy diệt vào nhiên liệu hóa thạch.

Giờ đây, chi tiêu của chính phủ đang tăng vọt trên quy mô lớn, công chúng có quyền yêu cầu các công ty nhận được sự hỗ trợ cần đóng góp cho công bằng xã hội và chủng tộc, cải thiện y tế, cũng như chuyển sang nền kinh tế xanh hơn, dựa trên tri thức nhiều hơn.

Những giá trị này phải được phản ánh không chỉ trong cách phân bổ ngân sách mà còn trong các điều kiện đặt ra đối với người nhận.

Như tác giả bài báo và các nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra trong một nghiên cứu gần đây, chi tiêu công được định hướng tốt, đặc biệt là đầu tư vào chuyển đổi xanh, có thể diễn ra kịp thời, sử dụng nhiều lao động (giúp giải quyết vấn đề thất nghiệp tăng vọt) và mang tính kích thích cao đối với việc tạo ra giá trị nhiều hơn, chẳng hạn, so với cắt giảm các loại thuế.

Không có lý do kinh tế nào có thể giải thích thỏa đáng tại sao các nước lại không thể áp dụng các chương trình phục hồi lớn, bền vững vốn sẽ khẳng định hoặc đưa các nền kinh tế đến gần hơn với các xã hội ước mơ./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục