Ngày 4/3, tại Hà Nội, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) phối hợp với Đại học Loyola Chicago và Hiệp hội Hóa học và Độc học môi trường khu vực châu Á-Thái Bình dương, tổ chức Hội thảo tập huấn quốc tế về Ứng dụng mô hình tạo phức sinh học (BLM) trong quản lý môi trường.
Hội thảo có sự tham dự của gần 100 nhà quản lý và khoa học hoạt động trong lĩnh vực môi trường đến từ các quốc gia Đông Nam Á.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến cho biết hội thảo tập huấn là một trong các hoạt động nhằm giới thiệu về phương pháp ứng dụng mô hình tạo phức sinh học của UNEP, thảo luận về cơ hội và thách thức khi triển khai đánh giá chất lượng ô nhiễm môi trường ở các nước châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời rút kinh nghiệm khi thực hiện mô hình thí điểm để làm cơ sở nhân rộng mô hình này.
Các chuyên gia đã giới thiệu kịch bản BLM nhằm đánh giá chất lượng ô nhiễm kim loại nặng (Cu, Zn, Ni) ở châu Á như xây dựng và ứng dụng tiêu chuẩn (EQS) cho Nicken (Ni) trong hướng dẫn khung về môi trường nước của châu Âu, đã đạt được chất lượng sinh thái và hóa học tốt cho các thủy vực nước mặt, kiểm soát tuân thủ được áp dụng trong toàn bộ phương pháp phân loại dựa trên tích lũy sinh học; xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng môi trường cho trầm tích dựa trên tính tương quan giữa các chỉ số của chất lượng sinh thái nền đáy, các nồng độ chất ô nhiễm đo được, dựa trên thực địa và các chất ô nhiễm trầm tích thường biến thiên cùng nhau
Một trong những thách thức trong quản lý tại Việt Nam hiện nay đó là chưa có có mô hình xử lý ô nhiễm kim loại nặng hoàn thiện đạt được cả các tiêu chí về kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường.
Xử lý ô nhiễm kim loại nặng chỉ mới dừng ở các phương pháp hóa học, đó là sử dụng các chất hóa học để gia tăng phản ứng oxy hóa khử. Những tác nhân oxy hóa thường sử dụng là ozone, hydrogen peroxide, hypochlorine và chlorine dioxide.
Tác nhân khử thường dùng là sulfate sắt, sodium bisulfite và sodium hydrosufite, biến đổi các chất ô nhiễm thành các chất ít ô nhiễm hơn; biện pháp sinh học là sử dung vi sinh vật, dùng vi sinh vật để phân hủy các chất ô nhiễm bằng cách cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và không khí cho chúng. Trong môi trường tự nhiên, có nhiều loài vi sinh vật có khả năng hấp thu các kim loại nặng…
Các kim loại nặng có thể gây độc hại và ảnh hưởng đến cả số lượng cá thể và cả đa dạng về thành phần loài của các vi sinh vật đất. Song ảnh hưởng của mỗi nguyên tố đối với các sinh vật không giống nhau.
Việc xây dựng ngưỡng độc hại đối với các kim loại nặng là rất khó khăn và tùy thuộc vào mục đích sử dụng đất. Tùy theo từng nước mà công việc kiểm soát đánh giá đất ô nhiễm có khác nhau.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của Việt Nam cũng đã đưa ra dự thảo tiêu chuẩn chất lượng môi trường.
Theo đó, hàm lượng kim loại nặng trong đất và trên rau không được quá mức giới hạn cho phép. Cụ thể đồng (Cu) trong rau không quá 10 mg/kg, trong đất không quá 100mg/kg, kẽm (Zn) rau không quá 20 mg/kg, đất không quá 500mg/kg, Niken (Ni) rau không quá 10 mg/kg, đất 100 mg/kg ./.
Hội thảo có sự tham dự của gần 100 nhà quản lý và khoa học hoạt động trong lĩnh vực môi trường đến từ các quốc gia Đông Nam Á.
Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Bùi Cách Tuyến cho biết hội thảo tập huấn là một trong các hoạt động nhằm giới thiệu về phương pháp ứng dụng mô hình tạo phức sinh học của UNEP, thảo luận về cơ hội và thách thức khi triển khai đánh giá chất lượng ô nhiễm môi trường ở các nước châu Á nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời rút kinh nghiệm khi thực hiện mô hình thí điểm để làm cơ sở nhân rộng mô hình này.
Các chuyên gia đã giới thiệu kịch bản BLM nhằm đánh giá chất lượng ô nhiễm kim loại nặng (Cu, Zn, Ni) ở châu Á như xây dựng và ứng dụng tiêu chuẩn (EQS) cho Nicken (Ni) trong hướng dẫn khung về môi trường nước của châu Âu, đã đạt được chất lượng sinh thái và hóa học tốt cho các thủy vực nước mặt, kiểm soát tuân thủ được áp dụng trong toàn bộ phương pháp phân loại dựa trên tích lũy sinh học; xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng môi trường cho trầm tích dựa trên tính tương quan giữa các chỉ số của chất lượng sinh thái nền đáy, các nồng độ chất ô nhiễm đo được, dựa trên thực địa và các chất ô nhiễm trầm tích thường biến thiên cùng nhau
Một trong những thách thức trong quản lý tại Việt Nam hiện nay đó là chưa có có mô hình xử lý ô nhiễm kim loại nặng hoàn thiện đạt được cả các tiêu chí về kỹ thuật, kinh tế, xã hội và môi trường.
Xử lý ô nhiễm kim loại nặng chỉ mới dừng ở các phương pháp hóa học, đó là sử dụng các chất hóa học để gia tăng phản ứng oxy hóa khử. Những tác nhân oxy hóa thường sử dụng là ozone, hydrogen peroxide, hypochlorine và chlorine dioxide.
Tác nhân khử thường dùng là sulfate sắt, sodium bisulfite và sodium hydrosufite, biến đổi các chất ô nhiễm thành các chất ít ô nhiễm hơn; biện pháp sinh học là sử dung vi sinh vật, dùng vi sinh vật để phân hủy các chất ô nhiễm bằng cách cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và không khí cho chúng. Trong môi trường tự nhiên, có nhiều loài vi sinh vật có khả năng hấp thu các kim loại nặng…
Các kim loại nặng có thể gây độc hại và ảnh hưởng đến cả số lượng cá thể và cả đa dạng về thành phần loài của các vi sinh vật đất. Song ảnh hưởng của mỗi nguyên tố đối với các sinh vật không giống nhau.
Việc xây dựng ngưỡng độc hại đối với các kim loại nặng là rất khó khăn và tùy thuộc vào mục đích sử dụng đất. Tùy theo từng nước mà công việc kiểm soát đánh giá đất ô nhiễm có khác nhau.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn của Việt Nam cũng đã đưa ra dự thảo tiêu chuẩn chất lượng môi trường.
Theo đó, hàm lượng kim loại nặng trong đất và trên rau không được quá mức giới hạn cho phép. Cụ thể đồng (Cu) trong rau không quá 10 mg/kg, trong đất không quá 100mg/kg, kẽm (Zn) rau không quá 20 mg/kg, đất không quá 500mg/kg, Niken (Ni) rau không quá 10 mg/kg, đất 100 mg/kg ./.
Lý Thanh Hương (TTXVN)