Theo các chuyên gia, việc đổi mới cơ chế chính sách tài chính vốn mangnặng tính hành chính, không phù hợp với đặc thù hoạt động nghiên cứu sáng tạo,đồng thời huy động các nguồn lực đầu tư cho khoa học và công nghệ là một trongnhững vấn đề cần có giải pháp khắc phục nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động khoahọc và công nghệ.
Khó khăn từ nguồn cung
Hiện đầu tư cho các hoạt động khoa học và công nghệ chiếm khoảng gần 1%GDP với 3 nguồn: Nhà nước, xã hội và doanh nghiệp, trong đó từ ngân sách nhànước chiếm khoảng 0,5%, còn lại đến từ xã hội và doanh nghiệp. Con số này chothấy nguồn lực từ xã hội và doanh nghiệp chưa được phát huy.
Con số đầu tư ít làvậy, nhưng theo các chuyên gia kinh tế, nguồn vốn này còn bị sử dụng kém hiệuquả, do việc Nhà nước vừa là người xét duyệt vừa là người cấp phát, dẫn đến tìnhtrạng "vừa đá bóng vừa thổi còi," gây thất thoát và sử dụng không hiệu quả. Hệquả tiêu cực không tránh khỏi là cơ chế "xin - cho," trong đó nguy cơ các mốiquan hệ cá nhân tác động tới quyết định cấp phát là rất cao.
Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, số liệu tuyệt đối về tổng chi cho khoa họccông nghệ đã tăng từ 5.890 tỷ đồng năm 2006 lên 14.442 tỷ đồng vào năm 2011, đạtmức 2% tổng chi ngân sách Nhà nước (NSNN), tương đương 0,5 - 0,6% GDP. Trong đóchi đầu tư - phát triển chiếm tỷ trọng bình quân 35,5% và chi thường xuyên 48%,đạt mức 5.019,7 tỷ đồng vào năm 2011. Trong khi đó, mức đầu tư cho khoa học vàcông nghệ bằng ngân sách nhà nước ở Trung Quốc hiện nay là 2,2% và Hàn Quốc lênđến 4,5% GDP.
Bộ trưởng Bộ khoa học và công nghệ Nguyễn Quân cho rằng, mức đầu tư chokhoa học và công nghệ của Việt Nam là không thấp so với các quốc gia trên thếgiới. Nhưng con số tuyệt đối tính trên đầu người dân cũng như tổng đầu tư xã hộicho khoa học và công nghệ vào loại thấp nhất khu vực và thế giới (mức bình quâncủa các quốc gia trên thế giới là 1,9% GDP, trong đó các quốc gia phát triển chitới 2,7 - 3,5% GDP cho khoa học và công nghệ).
Dù phát triển khoa học và công nghệ được coi là "quốc sách hàng đầu,"nhưng đại diện của Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ thuật (VUSTA) cho biết, đầutư hàng năm cho khoa học lại xếp dưới các ngành văn hóa - thể thao, thủy lợi,hóa học.
Không những thế, theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Đặng Huy Đông, việcsử dụng ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ lại quá dàn trải.“Việc đăng ký đề tài đều được thông báo đến cho 29 Bộ, ngành và 63 tỉnh, thành.Đơn vị nào cũng muốn có một chút tiền. Chúng tôi ở vị trí chia tiền, quyết địnhđể ai, cắt ai là rất khó. Không có nước nào, đặc biệt là các nước đang pháttriển lại đầu tư vào hầu hết các ngành, lĩnh vực mà phải có mũi nhọn, trọngđiểm” - Thứ trưởng Đặng Huy Đông cho biết.
Đồng quan điểm với Thứ trưởng Đặng Huy Đông, ông Lê Bộ Lĩnh, đại diện BộNông nghiệp và Phát triển nông thôn, khẳng định: “Với số tiền 400 tỷ đồng/năm màphải chi cho tới 7.500 cán bộ khoa học và 150 tổ chức khoa học nông nghiệp cùnghàng nghìn đề tài khoa học. Tất cả mọi nơi đều kêu thiếu tiền, đầu tư như vậyrất khó có hiệu quả.”
Ngoài ra, theo nhiều nhà khoa học, tư duy quản lý khoa học công nghệ củaViệt Nam vẫn theo lối cũ, quản lý bằng kế hoạch hóa. Thông thường, từ khi đềxuất đề tài đến khi nhận được tiền mất khoảng hai năm, khi ấy các vấn đề nghiêncứu có khi không còn mới nữa, đồng thời hệ số trượt giá cũng làm chi phí thực tếđội lên rất nhiều.
Tiến sỹ Đỗ Đức Chi, Trung tâm Thông tin và Dự báo kinh tế xã hội Quốc gia,cho rằng cơ chế tài chính chậm chi trả, đang thực hiện lại phải chờ kinh phí…khiến các nhà khoa học giảm đam mê, nhiệt huyết và hạn chế khả năng sáng tạo.Chỉ ra từ thực tiễn của bản thân, ông Chi cho biết, đến nay nhiều kinh phí cònlại của những dự án năm ngoái vẫn chưa được trả, còn kinh phí cho các dự ánnghiên cứu triển khai năm nay thì vẫn chưa có. Trong khi đó, nhiều chuyên giacho rằng khi thực hiện đề tài nghiên cứu, giới khoa học chỉ lo làm thế nào đểhợp thức hóa các chứng từ đã mất quá nhiều thời gian. Dẫn đến hệ lụy, nhiều nhàkhoa học buộc phải "bịa" ra các chuyên đề. Có đề tài lên tới hàng trăm chuyênđề, trong khi thực tế khoảng hơn chục chuyên đề.
Xã hội hóa để tăng nguồn tài chính ngoài ngân sách
Trước thực trạng trên, các chuyên gia cho rằng cần đổi mới cơ chế, chínhsách tài chính theo hướng tăng nguồn tài chính ngoài ngân sách nhà nước cho pháttriển khoa học và công nghệ. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao hiệu quả đầu tư củanhà nước cho khoa học và công nghệ; tạo động lực cho tổ chức và cá nhân hoạtđộng trong lĩnh vực này.
Một giải pháp quan trọng là cần đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho khoa họcvà công nghệ. Trong phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội gần đây, Chủ nhiệm Ủyban Văn hóa, Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng Đào Trọng Thi cho rằng, cầnphải quan tâm đến vấn đề xã hội hóa, nhưng không xã hội hóa như các lĩnh vực vănhóa, giáo dục, y tế... Việc xã hội hóa này thực ra cũng là đầu tư, tức là nguồnđầu tư ngoài nhà nước. Tính xã hội hóa ở đây hơi khác, chủ yếu là huy động nguồnlực ngoài nhà nước để phát triển khoa học - công nghệ.
Trước vấn đề này, nhiều nhà khoa học cũng cho rằng, cần khuyến khích doanhnghiệp thành lập Quỹ phát triển khoa học và công nghệ để thực hiện nghiên cứu,ứng dụng kết quả nghiên cứu phục vụ đổi mới công nghệ và sản phẩm; doanh nghiệpđược khấu hao nhanh đối với tài sản, thiết bị, máy móc; được vay vốn với lãisuất ưu đãi tại Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, các Quỹ pháttriển khoa học và công nghệ của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đểtiến hành hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới công nghệ.
Để khắc phục những hạn chế do tư duy quản lý cũ, nhiều ý kiến cho rằng cầnban hành cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và côngnghệ của Nhà nước có mức thu thấp hoặc không có thu.
Áp dụng cơ chế khoán đốivới đề tài, dự án khoa học và công nghệ trong một số lĩnh vực khoa học và côngnghệ trên cơ sở thẩm định kỹ về nội dung, sản phẩm nghiên cứu và dự toán kinhphí thực hiện.
Việc thanh, quyết toán kinh phí thực hiện đề tài, dự án khoa họcvà công nghệ phải căn cứ vào kết quả đánh giá chất lượng sản phẩm nghiên cứu làchủ yếu; bãi bỏ các thủ tục thanh, quyết toán không còn phù hợp trong thực hiệnnhiệm vụ khoa học và công nghệ. Tuy nhiên, để đảm bảo cơ chế khoán hoạt độnghiệu quả không hề dễ dàng, đòi hỏi khâu quản lý kết quả sản phẩm đầu ra vô cùngnghiêm ngặt. Nếu không, vô hình chung lại trở thành lãng phí và bị lợi dụng,trong bối cảnh cơ chế nghiệm thu phản biện khoa học ở Việt Nam bị không ít nhữngphê phán những năm gần đây./.