Tiến trình hợp tác kinh tế và hội nhập của ASEAN

Kế hoạch tổng thể cho tiến trình hợp tác kinh tế và hội nhập của ASEAN tới năm 2015 là thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC).
Với tổng thể nền kinh tế có quy mô lớn và dân số hơn nửa tỷ người, Hiệp hội cácquốc gia Đông Nam Á - ASEAN (gồm 10 nước là Indonesia, Malaysia, Philippines,Singapore, Thái Lan, Bruney, Việt Nam, Lào, Myanmar và Campuchia) được nhận địnhcó nhiều tiềm năng trở thành một trung tâm kinh tế sánh ngang với Trung Quốc, ẤnĐộ, Brazil và Nga.

Hiện nay, ASEAN đang tăng cường hội nhập để tối ưu hóa khả năng hiệp lực trongkhu vực và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, cam kết thúc đẩynhanh kế hoạch thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015 bất chấp nhữngthách thức từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

* Về hình thức hội nhập kinh tế ASEAN

+ Liên kết kinh tế nội khối

Nội dung hợp tác chủ yếu và đặc biệt quan trọng của ASEAN là thúc đẩy tự do hóakinh tế - thương mại và liên kết kinh tế nội khối. Kim ngạch nội khối ASEAN tănggấp 2 lần trong 5 năm qua, đạt 1.710 tỉ USD (năm 2008).

Thương mại nội khối tăngđồng nghĩa với việc hậu cần nhập khẩu và hậu cần xuất khẩu tăng, các dịch vụ hậucần và giao thông vận tải sẽ ngày càng sinh ra nhiều lợi nhuận. Tất cả 10 nướcASEAN đều đạt mức tăng trưởng kinh tế cao so với các khu vực khác trên thế giới(với nhịp độ tăng trung bình hằng năm từ 5-10%).

Tuy nhiên, ASEAN nhận thức rằng không thể liên kết kinh tế có hiệu quả nếu khôngthu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên trong khu vực. Thu hẹpkhoảng cách phát triển vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là mục tiêu lâu dài, phục vụcho sự phát triển đồng đều của khu vực, biến ASEAN trở thành khu vực kinh tếnăng động. Vì vậy, ASEAN đã thực sự bắt tay vào việc tiến hành các chương trìnhhợp tác nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, điều này thể hiện rõ trong sángkiến hội nhập ASEAN.

Năm 2008, ASEAN đã thu hút được 60 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),trong khi đó, đầu tư nội khối cũng đạt con số tương đương. Các nhà đầu tư châu Ácoi Indonesia và Việt Nam là những địa chỉ thay thế khi chi phí kinh doanh tạiTrung Quốc ngày một tăng cao. Trên thực tế, xét về quy mô kinh tế, GDP của TrungQuốc lớn gấp 3 lần ASEAN, nhưng Trung Quốc chỉ thu hút được 108 tỷ USD vốn FDI(gấp 1,8 lần ASEAN).

Năm 2009, hướng tới mục tiêu xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC), các nướcthành viên ASEAN đã tập trung thực hiện 3 biện pháp chính sau:

- Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế pháp lý cho AEC

Biện pháp này đã được hoàn thiện bằng việc ký kết 3 thỏa thuận quan trọng, baogồm: Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA); Hiệp định đầu tư toàn diệnASEAN (ACIA) và Gói cam kết thứ 7 về dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp định khung vềdịch vụ ASEAN (AFAS).

- Thứ hai, tăng cường cơ chế giám sát, thực thi các thỏa thuận kinh tế đã đạtđược thông qua Biểu đánh giá AEC (AEC Scorcard). Về cơ bản, biện pháp này đãphát huy hiệu quả thực chất, có 87/124 văn kiện pháp lý được ký kết liên quantới AEC đã có hiệu lực (chiếm hơn 70%).

- Thứ ba, nâng cao nhận thức của cộng đồng về AEC thông qua chương trình truyềnthông ASEAN.

Biện pháp này cũng đã được một số thành viên ASEAN áp dụng sáng tạo và có hiệuquả, cụ thể như phổ biến thông tin, kiến thức cập nhật về AEC, thiết lập thêmkênh trao đổi thường xuyên giữa các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp củaASEAN. Việt Nam đã nhất trí chủ trương xây dựng Chương trình truyền thông AEC cótham khảo cách làm của một số nước ASEAN.

Tóm lại, thúc đẩy hội nhập kinh tế nội khối sẽ giúp 10 thành viên ASEAN cạnhtranh với các nền kinh tế khổng lồ láng giềng, như Trung Quốc và Ấn Độ. Sự hộinhập sâu hơn của ASEAN rất cần thiết để tối đa hóa sức mạnh hợp lực nội khối vàgiữ cho khu vực này gắn kết hơn với các nhà đầu tư và kinh tế quốc tế.

+ Mở rộng thêm nhiều hình thức liên kết

Bên cạnh việc đẩy mạnh hội nhập kinh tế nội khối, ASEAN có khuynh hướng “mở” vớicác đối tác ngoài khối thông qua các hình thức liên kết kinh tế, thương mại. Hợptác kinh tế của ASEAN với các đối tác bên ngoài được triển khai từ giữa nhữngnăm 90 của thế kỷ XX, chủ yếu là với các đối tác lớn như Mỹ, Nhật Bản, TrungQuốc, Ấn Độ, Liên minh châu Âu (EU)...

Hai nền kinh tế “đầu tàu” của khu vực -Nhật Bản và Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng - là những yếu tố thuận lợi chotăng trưởng kinh tế ASEAN. Hiệp định thương mại tự do song phương (FTA) được coilà một trong những con đường ngắn nhất để tăng cường hiệu quả hợp tác kinh tếgiữa ASEAN với các đối tác bên ngoài.

ASEAN đã ký kết FTA với một số đối tác lớnnhư Hàn Quốc (có hiệu lực từ 1/6/2007), Nhật Bản (có hiệu lực từ 1/12/2008),Trung Quốc (có hiệu lực từ ngày 1/1/2010), Ấn Độ (có hiệu lực từ tháng 1/2010), Australia và New Zealand (có hiệu lực từ 1/1/2010).

Ngoài ra, hợp tác kinh tế giữa ASEAN với nhiều đối tác lớn và quan trọng khácnhư Mỹ, Nga, Canađa… đang ngày càng được tăng cường, góp phần tích cực vào sựphát triển thương mại giữa ASEAN với các đối tác. Nhiều hình thức liên kết kinhtế với các đối tác bên ngoài, trong tương lai, sẽ tạo nên mạng lưới đan kết cótâm là ASEAN.

+ Thành lập quỹ hợp tác khu vực và quốc tế

Thành lập các quỹ hợp tác thể hiện rõ mong muốn nỗ lực hội nhập kinh tế khu vựccủa ASEAN để đối phó với cơn bão tài chính toàn cầu. Quỹ Dự phòng khẩn cấp vớisự hỗ trợ 10 tỉ USD của Ngân hàng thế giới (WB) được sử dụng mua các tài sản xấuvà hỗ trợ về vốn đối với các tổ chức tài chính cũng như các công ty tư nhân.

Ngoài ra, ASEAN cùng với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc (ASEAN+3) thành lậpQuỹ tài chính khu vực cứu trợ khẩn cấp với tổng trị giá 120 tỷ USD do các thànhviên đóng góp nhằm hỗ trợ tài chính cho những quốc gia gặp khó khăn. Trung Quốc,Nhật Bản và Hàn Quốc thống nhất tỷ lệ đóng góp 2:2:1 cho Quỹ tài chính khu vực,theo đó, Trung Quốc và Nhật Bản mỗi nước đóng góp 38,4 tỷ USD, Hàn Quốc góp 19,2tỷ USD.

Các khoản đóng góp của 3 nước đối tác chiếm 80% trị giá quỹ. Còn lại 20%giá trị quỹ do các nước thành viên ASEAN đóng góp. Cụ thể, 4 nước Indonesia,Thái Lan, Singapore và Malaysia, mỗi nước đóng góp 4,76 tỷ USD; Philippines đónggóp 3,68 tỉ USD. Các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Myanmar và Bruney đóng góptùy theo dự trữ ngoại tệ của mỗi nước.

Bên cạnh đó, ASEAN còn thành lập Quỹ hợptác đầu tư với Trung Quốc trị giá 10 tỉ USD để đối phó với cuộc khủng hoảng tàichính toàn cầu, và nhận sự hỗ trợ của Nhật Bản - nền kinh tế lớn nhất khu vực - với hơn 62 triệu USD để khắc phục suy thoái kinh tế.

* Những hạn chế trong quá trình hội nhập kinh tế của ASEAN

Kết quả hợp tác kinh tế trong ASEAN tuy đã đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưngchưa thực sự tạo ra bước phát triển đột biến trong quan hệ kinh tế thương mại.Thị phần thương mại nội khối mới chỉ chiếm khoảng 25% tổng giá trị thương mạicủa cả khối.

Tỷ lệ hàng hóa ASEAN tham gia thị trường toàn cầu chỉ ở mức 6%, làmức thấp so với quy mô GDP của khối. Từng nền kinh tế ASEAN chưa thực sự lànhững nền kinh tế mạnh và đang ở trong những giai đoạn phát triển kinh tế rất xanhau. Vì vậy, cần đẩy mạnh hơn nữa tiến trình hội nhập kinh tế toàn khối trongvòng 3 - 5 năm tới để cạnh tranh với các đối tác đang trỗi dậy.

Hợp tác nội khối ASEAN đang đứng trước không ít khó khăn. Mặc dù thương mại nộikhối ASEAN đã duy trì ở mức ổn định 25% tổng khối lượng thương mại toàn khu vực,song nếu so với trao đổi thương mại nội khối của EU (hơn 70%), thì rõ ràng mứchội nhập và liên kết nội khối của ASEAN chưa cao.

Điều quan trọng nữa là mứcchênh lệch phát triển giữa các quốc gia phát triển ASEAN 6 (Bruney, Indonesia,Malaysia, Philippines, Thái Lan và Singapore) với ASEAN 4 (Việt Nam, Lào,Campuchia, Myanmar) khá cao - được coi là yếu tố cản trở chính của sự liên kếtkinh tế.

Chênh lệch phát triển trong ASEAN chủ yếu tập trung ở 4 lĩnh vực chủyếu (4I), gồm kết cấu hạ tầng; thu nhập; liên kết và thể chế. Mức chênh lệch đó được thể hiện trên cácphương diện sau:

- Thứ nhất, sự chênh lệch về mức độ mở cửa thị trường. Thuế nhập khẩu trung bìnhcủa ASEAN ở mức 9,53%, dao động từ 0% (Singapore) đến 17,92% (Việt Nam). Để nhậpkhẩu bất kỳ loại hàng hóa nào trong ASEAN cần mất thời gian trung bình là 32ngày.

Mức dao động khác nhau từ 3 ngày (Singapore) tới 45 ngày (Campuchia) và 78ngày (Lào). Thời gian trung bình để bắt đầu hoạt động kinh doanh ở ASEAN là 64ngày, trong khi đó ở Singapore chỉ cần 6 ngày, còn ở Indonesia là 97 ngày, Lào là163 ngày.

- Thứ hai, chênh lệch về mức thu nhập bình quân đầu người. Mức thu nhập bìnhquân đầu người theo giá hiện hành của Singapore (25.207 USD)-nước có mức thu nhậpbình quân đầu người cao nhất trong khu vực-cao gấp 152 lần so với Myanmar (166USD) - nước nghèo nhất khu vực.

Thu nhập bình quân đầu người của Bruney, Malaysiacũng chỉ bằng 1/2 hoặc 1/5 của Singapore. Trong khi đó, thu nhập bình quân đầungười của Philippines chỉ bằng 1/4 của Malaysia.

- Thứ ba, chênh lệch về cơ cấu kinh tế. Không chỉ GDP đầu người giữa các nướcthành viên chênh lệch mà trình độ phát triển của các nước thành viên cũng khácnhau nhiều. Trong khi Singapore được đánh giá là nền kinh tế có năng lực cạnhtranh cao thứ 6 trên thế giới (năm 2005), thì Việt Nam chỉ được xếp thứ 81/117,Campuchia xếp thứ 112/117. Tăng trưởng xuất khẩu chế tạo và mức đóng góp củangành dịch vụ trong GDP của ASEAN 6 cũng chiếm khá cao (hơn 40%) so với mức 26%- 27% của các nước ASEAN 4 kể từ năm 2003 đến nay.

- Thứ tư, chênh lệch trong xu hướng xuất khẩu. ASEAN 6 chiếm ưu thế trong đónggóp xuất khẩu vào GDP (85%) so với 31% của ASEAN 4 (từ năm 2004), trong khi nhậpkhẩu đóng góp 21% GDP của ASEAN 4 so với 66% GDP của ASEAN 6. Sự khác nhau trongxu hướng thương mại dẫn đến sự chênh lệch thuế quan.

- Thứ năm, chênh lệch về chỉ số phát triển nguồn nhân lực (HDI). Dựa trên cácthông số về tuổi thọ, mức chi tiêu cho giáo dục, sức khỏe, tỷ lệ người biếtchữ... ASEAN được chia thành 4 nhóm về HDI: nhóm 1 “phát triển nguồn nhân lựccao” gồm Singapore và Bruney; nhóm 2 “phát triển nguồn nhân lực trung bình cao”gồm Malaysia, Philippines và Thái Lan; nhóm 3 “phát triển nguồn nhân lực trungbình” gồm Indonesia và Việt Nam; cuối cùng là nhóm “phát triển nguồn nhân lựctrung bình thấp” gồm 3 nước còn lại là Campuchia, Lào và Myanmar.

- Thứ sáu, chênh lệch mức giàu nghèo. Theo tiêu chí đánh giá mức nghèo của quốctế (dưới 1 USD/ngày), Lào và Campuchia có số dân sống dưới ngưỡng nghèo caonhất, trong khi đó Singapore là 0%; Malaysia là 0,2%; Philipines là 15,5%.

- Thứ bảy, chênh lệch kết cấu hạ tầng giao thông vận tải và năng lượng. Mứcchênh lệch giữa ASEAN 6 và ASEAN 4 thể hiện rõ ở mạng lưới đường cao tốc, đườngsắt, hệ thống dây dẫn và đường ống dẫn ga....

Nhóm ASEAN 4 cũng thiếu kết cấu hạtầng “mềm” (công nghệ thông tin, viễn thông và hệ thống ITC) - điều kiện tối cầnthiết cho các giai đoạn phát triển tiếp theo. Rõ ràng, những chênh lệch về kinhtế - xã hội, sự khác nhau về năng lực tổ chức giữa các nhóm nước ASEAN đã kìmhãm tiến độ liên kết và hội nhập khu vực.

Chênh lệch phát triển giữa các nước thành viên ASEAN còn được thể hiện ở chênhlệch về sự phát triển của thị trường tài chính, năng lực tài chính..., trong đó,việc thiếu tài trợ tài chính trong khu vực được xem là khó khăn nhất. Chênh lệchvề trình độ phát triển làm cho ASEAN khó khăn hơn trong các nỗ lực tập thể, tínhkhả thi của các chính sách chung bị hạn chế.

* Những bài học kinh nghiệm

Để thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập, ASEAN cần tiếp tục đẩy nhanh liên kếtkinh tế nội khối, tích cực đàm phán với các đối tác bên ngoài để hình thành cáckhu vực mậu dịch tự do rộng lớn hơn. Nhưng để liên kết kinh tế nội khối và việcđàm phán xây dựng các FTA với các nước ngoài khu vực được tiến triển nhanh,ASEAN cần giải quyết 3 vấn đề rất trọng yếu sau:

- Một là, ASEAN cần nỗ lực thực hiện đầy đủ các cam kết đã có và tiếp tục đề racác sáng kiến mới nhằm đẩy nhanh tiến trình liên kết kinh tế nội khối, nhanhchóng thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước thành viên, tiến tới hìnhthành AEC đúng tiến độ.

- Hai là, xây dựng các FTA với các đối tác cần phải được tiến hành theo một lộtrình phù hợp, cùng có lợi, cùng phát triển.

- Ba là, sự tham gia của các doanh nghiệp cần được thúc đẩy ở cả hai phía. Mộtmặt, các chính phủ cần xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp để xây dựng các khuvực mậu dịch tự do; mặt khác, chính doanh nghiệp cũng cần chủ động khai tháctriệt để những cơ hội mà các FTA mang lại.

Kế hoạch tổng thể cho tiến trình hợp tác kinh tế và hội nhập của ASEAN tớinăm 2015 là thành lập Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). AEC sẽ hội tụ những biệnpháp nhằm thúc đẩy hơn nữa tự do hóa thương mại, cải thiện hạ tầng kinh doanh,giảm chi phí giao dịch thương mại, tăng tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư củaASEAN, củng cố hệ thống giải quyết tranh chấp nội bộ khối.

Khi AEC trở thànhhiện thực, sẽ tồn tại một khu vực kinh tế ASEAN cạnh tranh, thịnh vượng và ổnđịnh, ở đó có sự dịch chuyển tự do hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, dịch chuyển tựdo hơn cho các dòng vốn, phát triển kinh tế công bằng và giảm đói nghèo cũng nhưbất bình đẳng kinh tế-xã hội.

Hiến chương ASEAN sẽ giúp khu vực Đông Nam Á trởthành một tổ chức có cơ cấu chặt chẽ hơn nhằm đáp ứng tốt hơn những thách thứcđặt ra trong quá trình hội nhập khu vực, sự mở rộng các mối quan hệ đối ngoại vàtoàn cầu hoá nhanh chóng. Trong khi thực hiện điều này, ASEAN phải duy trì mộtsân chơi hiệu quả trong bối cảnh hội nhập quốc tế và khu vực.

Hiến chương ASEANsẽ thiết lập một khuôn khổ và nền tảng pháp lý cho ASEAN tái cơ cấu cơ chế hiệnhành của nó, cải tiến quá trình ra quyết định nhằm củng cố hiệu lực và bảo đảmviệc thực hiện đúng tiến độ các hiệp định, quyết định của ASEAN. Liên kết kinhtế ASEAN được coi là trụ cột chính, là yêu cầu cấp bách để phát triển kinh tếkhu vực.

Tuy nhiên, để đẩy nhanh quá trình này, ASEAN rất cần có sự tham khảotiến trình liên kết của các tổ chức khu vực, nhất là mô hình liên kết EU. Tuyhai mô hình liên kết này có những khác biệt, nhưng từ kinh nghiệm EU và thựctiễn, ASEAN cần sáng tạo đưa ra hướng đi hợp lý cho AEC./.

(TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục

Tổng Bí thư Tô Lâm gặp nguyên Thủ tướng Singapore, Bộ trưởng cao cấp Lý Hiển Long. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Tổng Bí thư Tô Lâm gặp và trao đổi với nguyên Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long

Tổng Bí thư Tô Lâm cảm ơn những đóng góp trực tiếp của ông Lý Hiển Long trên cương vị Thủ tướng Singapore trước đây đã góp phần tạo nền tảng vững chắc cho quan hệ hai nước; khẳng định việc hai bên chính thức nâng cấp quan hệ lên Đối tác Chiến lược Toàn diện sẽ tạo xung lực mới thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hai nước, đóng góp tích cực vào hòa bình, ổn định hợp tác và phát triển ở khu vực.