Đại diện Tổng cục Thuế thừa nhận, Việt Nam có thể là một trong những thiên đường thuế với mức thuế suất nhìn chung là thấp với nhiều mức ưu đãi, miễn giảm. Bởi vậy, việc tăng thuế trong đó đặc biệt là thuế thu nhập doanh nghiệp là điều được giới chuyên gia đề xuất.
Thiệt cho ngân sách?
Phát biểu tại hội thảo “Các công cụ quản lý ngân sách Nhà nước: Kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị cho Việt Nam” do Oxfam tổ chức sáng 18/10, ông Nguyễn Văn Phụng, Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế doanh nghiệp lớn, Tổng cục Thuế nhận định, Việt Nam “có lẽ là một trong những thiên đường thuế.”
[Thu ngân sách: Vượt dự toán nhưng ‘dựa dẫm’ vào đất và dầu thô?]
Theo ông, ngoài mức thuế thu nhập doanh nghiệp 20%, Việt Nam còn có mức ưu đãi 10%, 15% hay 17% tùy từng đối tượng. Thậm chí, hiện cũng có quy định về miễn thuế suốt đời dự án, miễn thuế 4 năm, giảm 9 năm,…
Qua đó, nhìn tổng thể, theo ông, mức thuế của nước ta hiện thấp. So với các nước trong khu vực, ông đánh giá, mức thuế của Việt Nam là cạnh tranh. Tuy nhiên, vấn đề là mức thuế trên có thể thuận cho doanh nghiệp nhưng lại thiệt về ngân sách Nhà nước.
Theo ông, Việt Nam đang chấp nhận khuyến khích tích lũy nên một thời gian dài nước ta thực hiện cắt giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, giữ thuế thu nhập cá nhân ở mức thấp.
“Đây chính là dư địa mà nhiều chuyên gia nói tới và chúng tôi cần nghiêm túc suy nghĩ,” ông Phụng nói.
Ông Mathew Martin, Giám đốc Tổ chức Tài chính phát triển quốc tế (DFI) cũng bày tỏ quan điểm tương tự. Vị này đánh giá, thuế suất thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam hiện thấp hơn hầu hết các nước láng giềng và thấp hơn mức trung bình toàn cầu (25%).
Riêng với chính sách miễn giảm thuế cho khu vực FDI, ông này nêu quan điểm, không có bằng chứng nào liên quan giữa khuyến khích đầu tư và miễn giảm thuế. Việc các nhà đầu tư quyết định đầu tư theo ông dựa trên nhiều cơ sơ như lực lượng lao động địa phương, cơ sở hạ tầng,… Thuế theo ông chỉ là một “yếu tố bên lề” và thậm chí có thể không cần đề cập tới để thu hút vốn FDI.
Nói thêm về vấn đề này, bà Nguyễn Thu Hương, Quản lý cao cấp Chương trình quản trị của Oxfam cho rằng, một số nước hiện đã bỏ ưu đãi thuế hoặc chỉ ưu đãi với một số ít trường hợp.
Trong khi ấy với Việt Nam, bà nhấn mạnh, việc ưu đãi vẫn nằm ở nhiều luật không chỉ Luật Quản lý thuế. Trong khi ấy, tổng chi phí cho việc ưu đãi thuế là bao nhiêu theo bà hiện vẫn chưa được công bố.
“Ông nào cũng đòi bánh to”
Ở hướng ngược lại, về chi ngân sách, ông Nguyễn Văn Phụng nêu thực tế, ngành nào cũng muốn tăng tỷ lệ chi trong khi “tiền đâu cho đủ.”
“Ông nào cũng đòi bánh to, mà bánh chỉ có một, ta phải nghĩ làm sao bánh to ra,” ông nói.
Tiến sỹ Vũ Sỹ Cường, Học viện Tài chính thì bình luận, không gian tài khóa của Việt Nam còn ít. Trong khi ấy, tổng chi trong cơ cấu GDP luôn cao. Việc này theo ông đã được nhắc tới trong những năm trước đó chứ không chỉ hiện tại.
Vấn đề ông cảnh báo là tình trạng dựa vào nguồn thu nhiều ngoài thuế quá nhiều, ví dụ như thu từ đất đai.
Trong tình trạng ấy, theo ông, hiện Quốc hội trì hoãn đánh thuế tài sản hay một số loại thuế khác nhưng “sớm muộn cũng phải đánh vì làm gì còn nguồn nào khác.”
“Không gian tài khóa như hiện tài gần như hết cửa rồi,” vị chuyên gia nói.
Ông nói thêm, một trong những giải pháp được nhắc tới trước đó là quản lý tốt để chống thất thu, nợ đọng thuế. Tuy vậy, theo ông, giải pháp này không thể dài hạn. Ông nhắc lại quan điểm, sớm hay muộn cũng phải tăng thuế.
Ngoài huy động thu, tiến sỹ Vũ Sỹ Cường cũng cảnh báo về vấn đề khác là khuôn khổ pháp luật và thể chế vẫn chưa được xây dựng theo hướng đánh giá kết quả đầu ra của chi tiêu công.
Gợi ý thêm, ông Mathew Martin nêu quan điểm, quá trình huy động nguồn thu có thể tính tới các biện pháp mạnh mẽ hơn. Ví dụ như hiện Việt Nam đã có thuế bảo vệ môi trường tuy nhiên thuế suất với một số hàng hóa như nhựa hay thuốc trừ sâu rất thấp. Hoặc, theo ông, mức thuế thu nhập cá nhân với quà tặng, thừa kế hiện chỉ 10%,…
Vị này cũng cho rằng, cần chuyển từ lập kế hoạch ngân sách hàng năm sang lập kế hoạch tài chính trung hạn, thường là 3-5 năm.
Theo ông, nhiều quốc gia hiện nay còn lập kế hoạch dài hạn hơn nữa, chẳng hạn như 10 năm. Tất nhiên, kế hoạch có thể cập nhật hàng năm, ông gọi đó là “gối đầu” và nhiều nước cũng đang làm theo cách này.
Ông nêu thực tế, một số quốc gia chỉ áp dụng khung chi tiêu trung hạn, tức là đặt ra mức trần chung cho hoạt động chi tiêu sao cho cân đối với thâm hụt ngân sách và các mục tiêu về nợ. Tuy nhiên, ông nhận định, ngày càng nhiều quốc gia lập kế hoạch dài hạn hơn, trong đó bao gồm các chiến lược về tài chính và nguồn thu trung hạn. Cách làm này theo ông đóng vai trò rất quan trọng trong việc tối đa hóa dư địa tài chính và đảm bảo ổn định “hầu bao” chi tiêu./.