Những biến động của chuỗi cung ứng toàn cầu sau đại dịch COVID-19 vừa là thách thức nhưng cũng là cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận và tham gia sâu hơn vào thị trường cung cấp sản phẩm cho các nước Hồi giáo.
Đây là nhận định của các chuyên gia tại Hội thảo “Tìm kiếm thị trường mới dưới tác động của COVID 19” do Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư Thành phố Hồ Chí Minh (ITPC) phối hợp cùng Trung tâm Halal Việt Nam (VHC) tổ chức ngày 28/4 thông qua hình thức phòng họp trực tuyến.
Bà Cao Thị Phi Vân, Phó Giám đốc ITPC, cho biết trong thập kỷ trước (2010-2019) nền kinh tế toàn cầu nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng đã đạt được những thành tựu khả quan, trong đó xu hướng thương mại hội nhập, cởi mở chiếm thế chủ đạo, Việt Nam ngày càng tham gia sâu hơn vào hợp tác kinh tế, thương mại quy mô lớn.
[Thương hiệu quốc gia: Tăng vị thế doanh nghiệp trên bản đồ thế giới]
Chính vì vậy, năm 2020 được kỳ vọng sẽ là năm khởi đầu thập kỷ mới với nhiều bước tiến về kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, sự xuất hiện và bùng phát của dịch COVID-19 trên suy mô toàn cầu đã tác động không nhỏ đến hoạt động sản xuất kinh doanh, thương mại.
Nhiều doanh nghiệp buộc phải đưa ra giải pháp ứng phó; trong đó, một số doanh nghiệp chọn “ngủ đông” chờ đại dịch đi qua, nhưng cũng không ít doanh nghiệp mạnh dạn đổi mới phương thức tìm kiếm thị trường và tiếp cận các khu vực tiêu dùng mới.
Một trong những thị trường được đánh giá còn nhiều tiềm năng cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chính là cộng đồng các quốc gia hồi giáo. Tuy nhiên, đây cũng là thị trường còn mới lạ và có những quy định về tiêu chuẩn riêng mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tuân thủ để tiếp cận hiệu quả.
Ông Ramlan Osman, Giám đốc kinh doanh Việt Nam Halal Center, cho biết cộng đồng người Hồi giáo toàn cầu có quy mô lên tới hơn 1,8 tỷ dân, phân bổ ở 57 quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau với nhu cầu tiêu dùng hàng năm khoảng 2.800 tỷ USD.
Đây là một trong những khu vực thị trường đặc thù với yêu cầu sản phẩm có chứng nhận Halal (sản phẩm được phép của đạo Hồi) sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong thời gian tới và được nhiều quốc gia xuất khẩu tích cực khai thác.
Nói đến sản phẩm Halal, người ta thường nghĩ ngay đến thực phẩm và các nhà cung cấp thực phẩm lớn cho thị trường Halal thế giới chủ yếu đến từ Brazil, Australia, Malaysia, UAE, Thái Lan, Nhật Bản. Trong đó Thái Lan đang hướng đến mục tiêu “nhà bếp của thế giới.”
Theo ông Ramlan Osman, Việt Nam cũng được đánh giá là quốc gia có rất nhiều lợi thế để nắm bắt cơ hội từ thị trường Halal với việc sở hữu dồi dào nguyên vật liệu phù hợp với tiêu chuẩn Halal bao gồm càphê, gạo, các sản phẩm từ biển, thủy hải sản, gia vị, đậu hạt, rau củ quả.
Tuy nhiên, thời gian qua chưa có nhiều doanh nghiệp và sản phẩm Việt Nam tiếp cận mạnh mẽ vào thị trường Halal.
Ngoài thực phẩm, Việt Nam cũng có lợi thế trong các sản phẩm liên quan tới chăm sóc sức khỏe, mỹ phẩm có nguồn gốc thiên nhiên, đồ thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm gia dụng và đặc biệt là dịch vụ du lịch cũng hứa hẹn rất nhiều tiềm năng…
Theo ước tính, nhu cầu nhập khẩu và sử dụng dịch vụ của cộng đồng các nước Hồi giáo đối với sản phẩm thế mạnh của Việt Nam vào khoảng 34 tỷ USD mỗi năm nhưng trên thực tế kim ngạch xuất khẩu sản phẩm của Việt Nam vào khu vực này mới đạt 10,5 tỷ USD. Điều này đồng nghĩa với việc hơn 2/3 nhu cầu tiêu dùng, trị giá 23,6 tỷ USD đã bị bỏ lỡ.
"Việt Nam có rất nhiều sản phẩm mỹ phẩm như: son, kem dưỡng, dầu thơm sản xuất từ nguyên liệu tự nhiên, phù hợp với nhu cầu của người Hồi giáo nhưng hiện tại vẫn chưa có sản phẩm nào tham gia thị trường các nước đạo Hồi," ông Ramlan Osman nhấn mạnh.
Ông nói thêm: "Tương tự, Người Hồi giáo ngày càng yêu thích đi du lịch nhưng tại Việt Nam hầu như chưa có cơ sở lưu trú nào quan tâm đến vấn đề bài trí không gian phù hợp với văn hóa Halal cũng như các nhà hàng đạt chứng nhận Halal về ẩm thực để thu hút đối tượng du khách này.”
Các chuyên gia nhận định diễn biến của dịch COVID-19 thời gian qua đã khiến một số chuỗi cung ứng sản phẩm Halal, đặc biệt là thực phẩm bị đứt gãy, nhu cầu tiêu dùng tăng nhưng nhà cung ứng không đáp ứng đủ và kịp thời. Chính vì vậy, đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến tiếp cận thị trường và tham gia sâu vào chuỗi cung ứng sản phẩm Halal toàn cầu.
Theo chia sẻ của một doanh nghiệp đã xuất khẩu vào thị trường các nước Hồi giáo, đa số doanh nghiệp Việt Nam chỉ hiểu tiêu chuẩn Halal là yếu tố tôn giáo, nghĩa là không được sử dụng thịt heo, rượu và đồ uống có cồn trong chế biến thực phẩm.
Tuy nhiên, ngoài vấn đề tín ngưỡng tôn giáo nó còn là tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm với yêu cầu cơ bản là không chứa chất cấm và hợp vệ sinh.
Do đó, các sản phẩm đã đạt một trong số các tiêu chuẩn quốc tế như ISO, GMP, HACCP sẽ dễ dàng đạt được chứng nhận Halal hơn.
Thêm vào đó, mặc dù các nước Hồi giáo đều yêu cầu chứng nhận Halal nhưng không có nghĩa đó là tiêu chuẩn đồng nhất cho mọi quốc gia.
Chính vì vậy, doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm cần trao đổi trực tiếp với đối tác của mình để hiểu rõ và đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn mà thị trường đó đặt ra./.