ĐBSCL: Mũi nhọn đã có, chỉ thiếu "bước đi" thích hợp

ĐBSCL là vùng có nhiều tiềm năng để phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản, chế biến thủy sản phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Tuy nhiên, thế mạnh này của ĐBSCL vẫn chưa được khai thác hiệu quả, chỉ dừng lại ở dạng “tiềm năng”, chưa thật sự trở thành động lực quan trọng tạo “cú hích” cho phát triển kinh tế- xã hội của vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là trung tâm sản xuất lương thực thực phẩm, thủy sản và cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất nước với nguồn nguyên liệu phong phú và có sản lượng lớn.

Nhưng đến nay, công nghiệp chế biến ở khu vực này chỉ ở mức sơ chế là chủ yếu, tỷ lệ chế biến chuyên sâu còn thiếu và yếu nên chưa tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao, thu nhập của người nông dân còn thấp, gây lãng phí lớn đến nguồn nguyên liệu phong phú của khu vực này.

Công nghiệp chế biến là mũi nhọn kinh tế

Hiện nay, vùng Đồng bằng sông Cửu Long sản xuất mỗi năm trên 20,7 triệu tấn lúa, chiếm 53,4% sản lượng lúa và 90% lượng gạo xuất khẩu cả nước; sản lượng mía trên 5 triệu tấn, diện tích cây ăn quả khoảng 290.000ha, hàng năm cho sản lượng khoảng 2,5 triệu tấn, trong đó có nhiều sản phẩm nổi tiếng như cam sành, bưởi, quít, xoài, vú sữa, măng cụt, sầu riêng...

Về thủy sản, tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản hàng năm khoảng 3 triệu tấn, chiếm khoảng 58% sản lượng thủy sản cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản toàn vùng khoảng 2,5 tỷ  USD, chiếm 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước.

Tuy nhiên, theo các ngành hữu quan, công nghiệp chế biến và xuất khẩu nông thủy-sản của vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhìn chung phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn nguyên liệu của địa phương.

Xuất khẩu thủy sản tăng trưởng chậm; sản phẩm chủ yếu xuất ở dạng thô; nhiều sản phẩm làm ra giá thành còn cao, sức cạnh tranh thấp; hệ số sử dụng công suất chế biến thủy sản đông lạnh và chế biến rau quả đạt thấp; các cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản chưa phát triển...

Ngoài ra, công suất xay xát và chế biến gạo xuất khẩu chưa tương ứng với nguồn nguyên liệu của địa phương, công nghệ xay xát lạc hậu tiêu tốn nhiều năng lượng, tỷ lệ hao hụt cao.

Công nghiệp chế biến của vùng chủ yếu gồm ngành xay xát lương thực với số lượng cơ sở được phân bố ở hầu hết các tỉnh, thành với nhiều nhà máy có công suất khác nhau, theo số liệu thống kê, sản lượng xay xát toàn vùng năm 2009 đạt trên 7,8 triệu tấn. Chế biến thủy sản có 133 nhà máy với tổng công suất 690.000 tấn/năm.

Mặc dù chế biến thủy sản là ngành công nghiệp mũi nhọn, luôn chiếm tỷ trọng và có tốc độ tăng trưởng cao trong vùng, nhưng sản phẩm chế biến chỉ dừng lại ở mức là cá tra philê, tôm đông lạnh, mực đông lạnh…

Tiến sỹ Nguyễn Việt Thắng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu thủy sản Bình An cho rằng toàn bộ con cá tra đều sử dụng được, ngoài việc làm philê xuất khẩu thì xương, da, bong bóng, mỡ cá… đều chế biến thành những sản phẩm hữu ích.

Ông Thắng còn cho biết, hiện nay viện của ông đang nghiên cứu, tận dụng những phụ phẩm con cá tra để chế biến các mặt hàng như nước mắm cao cấp, dầu ăn và nhất là sản xuất sản phẩm collagen cao cấp làm từ da cá tra.

Theo các nhà kinh tế, nguyên nhân công nghiệp chế biến ở Đồng bằng sông Cửu Long chậm phát triển và không thu hút được các nhà đầu tư là do chất lượng quy hoạch và định hướng chung cho phát triển mang tính kinh tế vùng còn thấp; thiếu chiến lược chung và thiếu đồng bộ và tính liên kết, làm cho việc khai thác các nguồn lực, nhất là các nguồn lực đất đai sử dụng chưa hợp lý. Bên cạnh đó còn là hiện tượng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thiếu hụt nguồn nhân lực cao, năng lực cạnh tranh thấp...

Tại hôi nghị xúc tiến đầu tư vùng Đồng bằng sông Cửu Long vừa qua, Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Ngân hàng thế giới (WB) tại Việt Nam nhận xét trong hai thập kỷ qua, tỷ lệ nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long giảm xuống, thương mại hóa thủy hải sản đạt cao, đây là lĩnh vực có thể thu hút đầu tư.

Tốc độ đô thị hóa Đồng bằng sông Cửu Long phát triển rất nhanh, các khu công nghiệp mọc lên nhiều. Tuy nhiên, các tỉnh không được hưởng lợi nhiều từ các dự án đầu tư nước ngoài.

Tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài trên đầu người toàn quốc trên 2.000 USD nhưng ở Đồng bằng sông Cửu Long chỉ hơn 400 USD. Vì vậy, cần tìm hiểu các nhà đầu tư cần những thông tin gì và hướng họ vào các lĩnh vực cần thiết.

Sản lượng thủy hải sản, lương thực nhiều, nhưng cần có những mô hình mới để tạo ra các cụm sản xuất hàng hóa số lượng lớn giá rẻ, tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho các sản phẩm, tạo ra hiệu suất cao hơn cho chuỗi giá trị liên quan đến các hoạt động về canh tác, tạo cho người nông dân thu lợi được nhiều hơn từ các hoạt động sản xuất.

Trong khi đó, thị trường nội địa ở Đồng bằng sông Cửu Long thực sự chưa khai thác đầy đủ, nhất là các sản phẩm công nghiệp chế biến dựa trên nông nghiệp và cung cấp các dịch vụ lớn hơn cho thị trường nội địa...

Loay hoay tìm "bước đi" thích hợp

Tiềm năng và thế mạnh của Đồng bằng sông Cửu Long trong giai đoạn mới vẫn là nông nghiệp và nguồn nhân lực dồi dào. Theo kế hoạch phát triển kinh tế, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục phát huy thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, khai thác nuôi trồng thủy sản, phấn đấu đến năm 2015, sản lượng lúa đạt khoảng 21 triệu tấn (tăng 500.000 tấn so với năm 2010), trong đó có một triệu ha lúa chất lượng cao; sản lượng ngô 412.000 tấn (45% so với năm 2010)...

Về thủy sản, tiếp tục đầu tư xây dựng thành ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất hàng hóa lớn, có sức cạnh tranh cao có kim ngạch xuất khẩu lớn. Đến năm 2015, tổng sản lượng thủy sản của vùng đạt 3,86 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác là 892 ngàn tấn và nuôi trồng là 2,97 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 4 tỷ USD.

Vì vậy, đầu tư phát triển hạ tầng trong điều kiện mới cho nông nghiệp bao gồm lúa gạo, cá da trơn, tôm, cây ăn trái, chăn nuôi và các lĩnh vực khác, công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, các loại dịch vụ phải gắn chặt với ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến để tạo ra giá trị gia tăng ngày càng lớn.

Mặt khác, để đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với tiềm năng và thế mạnh, thì lĩnh vực giáo dục-đào tạo, dạy nghề cũng là nhu cầu to lớn, phải giải quyết trong nhiều năm tới. Hạ tầng giao thông vùng Đồng bằng sông Cửu Long cơ bản được hình thành, nhưng so với yêu cầu phát triển thì còn nhiều vấn đề phải tiếp tục triển khai thực hiện.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Lương Lê Phương cho rằng Đồng bằng sông Cửu Long muốn phát triển nông nghiệp và thủy sản phải đầu tư theo chiều sâu và quy mô lớn.

Trong đầu tư sản xuất cần cơ giới hóa để nông dân giảm sức lao động trên đồng ruộng, tăng hiệu quả sử dụng đất, giảm thất thoát sau thu hoạch. Lấy nuôi trồng chủ yếu là nuôi cá tra, tôm càng xanh, tôm sú đang đem lại giá trị cao.

Trong thủy sản, cần đầu tư các nhà máy chế biến. Tuy nhiên, hiện nay có tỉnh vượt số lượng nguồn cung nguyên liệu, một số nhà máy đi vào tình trạng không có nguyên liệu, không có thị trường tiêu thụ. Từng tỉnh nên cân đối nguồn nguyên liệu, nếu đảm bảo nguồn nguyên liệu mới xây dựng nhà máy. Nhưng điều quan trọng là xác định được thị trường tiêu thụ ở đâu.

Ông Bùi Ngọc Sương, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang, cho biết Đồng bằng sông Cửu Long đang còn hàng loạt các vấn đề cần thống nhất chung về mặt nhận thức để có những bước đi thích hợp và sự điều chỉnh kịp thời.

Ngành công nghiệp chế biến vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới có nhu cầu đầu tư quy mô lớn, có trình độ công nghệ cao, gắn liền với phát triển vùng nguyên liệu. Do đó, đòi hỏi phải có quy hoạch về chiến lược phát triển hợp lý, đúng đắn; bảo đảm kết hợp tốt, hài hòa lợi ích của từng địa phương; phát huy tốt lợi thế toàn vùng.

Song song với xây dựng các cơ sở chế biến tập trung ở vùng nguyên liệu lớn, cần khuyến khích phát triển các cơ sở sản xuất có quy mô vừa và nhỏ. Phát triển công nghiệp chế biến trọng tâm vào ngành chế biến lúa gạo, thủy sản, thịt, hoa quả, nước giải khát...; nhanh chóng giảm sản phẩm sơ chế, tăng cường các sản phẩm chế biến sâu./.

Lê Hiền (TTXVN/Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục