Bộ Tài chính vừa có văn bản đề xuất với Chính phủ hướng sửa đổi, bổ sung Nghị định 84 về kinh doanh xăng dầu. Theo đó, công thức tính giá cơ sở, hoa hồng cho đại lý hay cơ chế sử dụng, quản lý Quỹ bình ổn giá sẽ có sự thay đổi lớn so với hiện nay.
Cụ thể, về công thức tính giá cơ sở, Bộ Tài chính đề xuất nghiên cứu quy định tính giá cơ sở bình quân 10 ngày, thay vì 30 ngày như hiện tại. Ngoài ra, cách tích giá cũng sẽ được nghiên cứu cho phù hợp với tần suất điều chỉnh giá (10 ngày) và số ngày dự trữ lưu thông (30 ngày).
Đặc biệt, Bộ Tài chính cho rằng nên đưa lợi nhuận định mức (hiện được quy định tối đa là 300 đồng một lít, kg) ra ngoài giá cơ sở để minh bạch tình hình lãi, lỗ của doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu.
Về thù lao, hoa hồng đại lý, Bộ Tài chính nhận định, mức chi phí này hiện nay do doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu tự thỏa thuận. Thực tế này dẫn tới việc mỗi doanh nghiệp quy định một mức khác nhau. Thậm chí có thời điểm, mức thù lao, hoa hồng của đại lý cao hơn cả mức khoán chi phí kinh doanh được Nhà nước quy định (với xăng, dầu diesel là 600 đồng/lít; dầu madút là 400 đồng/kg) để giành giật thị phần. Điều này gây khó khăn cho chính bản thân các doanh nghiệp, tạo ra sự phức tạp, lộn xộn thị trường.
Vì thế, Bộ Tài chính đề xuất nâng chi phí bán lẻ bình quân ở các địa bàn gần cảng nhập khẩu, nhà máy từ 600 đồng hiện hành lên 860 đồng một lít, kg. Các địa bàn khác, chi phí này được cộng thêm tối đa 2% giá bán lẻ ở mỗi mặt hàng. Quan trọng hơn, mức chi hoa hồng của doanh nghiệp cho các đại lý, tổng đại lý không được vượt 50% chi phí bán lẻ bình quân này.
Với Quỹ bình ổn giá, Bộ Tài chính cho rằng nên trích lập Quỹ ở ngay khâu đầu khi nhập khẩu hay tại thời điểm bán ra cuối cùng. Quỹ sẽ được quản lý tập trung tại Kho bạc Nhà nước và phải có cơ chế sử dụng Quỹ bảo đảm phản ứng nhanh với sự biến động của thị trường và không tao ra cơ chế xin-cho, giảm bớt thủ tục hành chính.
Nguyên nhân của hướng sửa đổi, Bộ Tài chính cho rằng, Quỹ bình ổn giá đang bị phân tán ở doanh nghiệp nên việc kiểm soát số dư rất phức tạp, tốn thời gian, chi phí. Ngoài ra, do quỹ để tại doanh nghiệp nên bằng cách hạch toán nội bộ, doanh nghiệp vẫn có thể tạm sử dụng nguồn lực này vào mục đích khác. Điều này vừa tạo ra rủi ro, vừa tạo sự thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp có quy mô quỹ khác nhau./.
Cụ thể, về công thức tính giá cơ sở, Bộ Tài chính đề xuất nghiên cứu quy định tính giá cơ sở bình quân 10 ngày, thay vì 30 ngày như hiện tại. Ngoài ra, cách tích giá cũng sẽ được nghiên cứu cho phù hợp với tần suất điều chỉnh giá (10 ngày) và số ngày dự trữ lưu thông (30 ngày).
Đặc biệt, Bộ Tài chính cho rằng nên đưa lợi nhuận định mức (hiện được quy định tối đa là 300 đồng một lít, kg) ra ngoài giá cơ sở để minh bạch tình hình lãi, lỗ của doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu.
Về thù lao, hoa hồng đại lý, Bộ Tài chính nhận định, mức chi phí này hiện nay do doanh nghiệp kinh doanh xăng, dầu tự thỏa thuận. Thực tế này dẫn tới việc mỗi doanh nghiệp quy định một mức khác nhau. Thậm chí có thời điểm, mức thù lao, hoa hồng của đại lý cao hơn cả mức khoán chi phí kinh doanh được Nhà nước quy định (với xăng, dầu diesel là 600 đồng/lít; dầu madút là 400 đồng/kg) để giành giật thị phần. Điều này gây khó khăn cho chính bản thân các doanh nghiệp, tạo ra sự phức tạp, lộn xộn thị trường.
Vì thế, Bộ Tài chính đề xuất nâng chi phí bán lẻ bình quân ở các địa bàn gần cảng nhập khẩu, nhà máy từ 600 đồng hiện hành lên 860 đồng một lít, kg. Các địa bàn khác, chi phí này được cộng thêm tối đa 2% giá bán lẻ ở mỗi mặt hàng. Quan trọng hơn, mức chi hoa hồng của doanh nghiệp cho các đại lý, tổng đại lý không được vượt 50% chi phí bán lẻ bình quân này.
Với Quỹ bình ổn giá, Bộ Tài chính cho rằng nên trích lập Quỹ ở ngay khâu đầu khi nhập khẩu hay tại thời điểm bán ra cuối cùng. Quỹ sẽ được quản lý tập trung tại Kho bạc Nhà nước và phải có cơ chế sử dụng Quỹ bảo đảm phản ứng nhanh với sự biến động của thị trường và không tao ra cơ chế xin-cho, giảm bớt thủ tục hành chính.
Nguyên nhân của hướng sửa đổi, Bộ Tài chính cho rằng, Quỹ bình ổn giá đang bị phân tán ở doanh nghiệp nên việc kiểm soát số dư rất phức tạp, tốn thời gian, chi phí. Ngoài ra, do quỹ để tại doanh nghiệp nên bằng cách hạch toán nội bộ, doanh nghiệp vẫn có thể tạm sử dụng nguồn lực này vào mục đích khác. Điều này vừa tạo ra rủi ro, vừa tạo sự thiếu bình đẳng giữa các doanh nghiệp có quy mô quỹ khác nhau./.
Xuân Dũng (Vietnam+)