Nâng cao giá trị nông sản Việt: Cần một chiến lược toàn diện

Cơ giới hóa trong nông nghiệp ở Việt Nam đã có bước phát triển nhanh, nhiều khâu sản xuất nông nghiệp có mức độ cơ giới hóa cao nhưng vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu tính đồng bộ.
Dây chuyền chế biến ngô ngọt xuất khẩu, công suất 4.000 tấn/năm tại nhà máy của Công ty Vifoco. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)
Dây chuyền chế biến ngô ngọt xuất khẩu, công suất 4.000 tấn/năm tại nhà máy của Công ty Vifoco. (Ảnh: Vũ Sinh/TTXVN)

Trong những năm gần đây, ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, bên cạnh những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như lúa gạo, càphê, tiêu, thủy sản, các mặt hàng khác như rau củ, trái cây cũng đã từng bước thâm nhập thị trường quốc tế với kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD.

Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp phần lớn duy trì ở quy mô nhỏ lẻ, manh mún trong phạm vi hộ gia đình với phương thức canh tác thủ công, hạn chế về cơ giới hóa và chế biến nên phần lớn nông sản vẫn đang xuất khẩu thô, giá trị mang lại không cao.

Cơ giới hóa trong nông nghiệp ở Việt Nam đã có bước phát triển nhanh, nhiều khâu sản xuất nông nghiệp có mức độ cơ giới hóa cao như làm đất lúa, mía, thu hoạch lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long giúp nông dân giảm thiểu công việc nặng nhọc, đảm bảo thời vụ gieo trồng, góp phần nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm...

Tuy nhiên, các chuyên gia nông nghiệp đánh giá, trình độ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam còn nhiều hạn chế và thiếu tính đồng bộ.

[Chương trình OCOP: Nâng tầm thương hiệu các sản vật địa phương]

Hiện hơn 93% máy làm đất, máy kéo có công suất nhỏ, năng lực chế tạo máy móc phục vụ nông nghiệp trong nước mới chỉ đáp ứng được 1/3 nhu cầu. Các loại động cơ, máy kéo, máy nông nghiệp công suất lớn đều phải nhập khẩu với chi phí đắt đỏ, nông dân không thể chi trả.

Ông Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn - nêu dẫn chứng trong lĩnh vực trồng trọt mới chỉ có cây lúa có mức độ cơ giới hóa cao ở nhiều khâu từ làm đất, gieo xạ, phun thuốc và thu hoạch. Các loại cây trồng khác như: mía, ngô, rau quả chỉ mới cơ giới hóa ở khâu làm đất, gieo hạt và chưa áp dụng được trong khâu thu hoạch.

Đối với chăn nuôi, việc cơ giới hóa đồng bộ và tự động hóa mới được áp dụng ở một số công ty, doanh nghiệp chăn nuôi lớn, phần còn lại chỉ cơ giới hóa ở một vài công đoạn nhất định.

Đặc biệt, trong lâm nghiệp việc đưa máy móc vào sản xuất hầu như chưa đáp ứng được nhu cầu, hơn 70% lượng công việc bao gồm trồng, chăm sóc, chữa cháy, bốc xếp sau khai thác đều được làm thủ công, tiêu tốn rất nhiều nhân công.

Nâng cao giá trị nông sản Việt: Cần một chiến lược toàn diện ảnh 1Phân loại chanh dây tại Trung tâm chế biến rau quả Doveco Gia Lai. (Ảnh: Hoài Nam/TTXVN)

Theo ông Trần Công Thắng, cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng thấp và chưa toàn diện, đồng đều giữa các vùng miền. Cơ giới hóa chỉ mới tập trung cho cây lúa trong khi cơ giới hóa trong sản xuất, thu hoạch cây ăn quả, rau màu, thủy sản, lâm nghiệp còn hạn chế.

Với các loại cây trồng và công đoạn đã được cơ giới hóa thì trình độ trang bị máy móc cũng còn lạc hậu, chỉ thích hợp với quy mô nhỏ.

Nguyên nhân là do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, thiếu tính liên kết. Cả nước hiện có 8,5 triệu hộ làm nông nghiệp; trong đó hơn 88% hộ có diện tích canh tác dưới 1ha (một nửa trong số đó có diện tích canh tác dưới 0,2ha), số hộ có diện tích canh tác 1-2ha chiếm 7,7%.

Đường giao thông liên vùng, liên xã và quy mô đồng ruộng phân tán khiến kết cấu hạ tầng các vùng sản xuất nông nghiệp khó ứng dụng cơ giới hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó, đầu tư cho nghiên cứu, phát triển lĩnh vực cơ giới hóa phục vụ nông nghiệp mặc dù được quân tâm nhưng chưa đúng mức, do đó chưa có nhiều máy móc, thiết bị thực sự đáp ứng được yêu cầu sản xuất.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Trần Thanh Nam nhận địnhviệc ứng dụng cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam mới chỉ dừng lại ở mức sử dụng máy gặt đập liên hợp, máy tuốt lúa mà chưa được áp dụng một cách đồng bộ từ khâu giống, canh tác, bón phân, tưới nước, đến thu hoạch trên một diện tích sản xuất lớn. Chính vì vậy, hiệu quả cơ giới hóa chưa cao, sản lượng, chất lượng nông sản không đồng đều và thiếu ổn định.

Dẫn chứng trong ngành lúa gạo, ngành được đánh giá là có tỷ lệ cơ giới hóa cao thì tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cũng còn rất lớn, gần 11% tổng sản lượng lúa (trị giá khoảng 13.700 tỷ đồng).

Chưa kể, 85% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có chất lượng thấp so với mặt bằng của các nước xuất khẩu gạo, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam vì thế cũng thấp hơn gạo các nước khác từ 35-100 USD/tấn tùy thời điểm.

Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong thời gian gần đây, công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản của Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể với tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng khoảng 5-7%/năm.

Đến nay, cả nước đã hình thành và phát triển hệ thống công nghiệp chế biến nông sản có công suất chế biến khoảng 120 triệu tấn nguyên liệu/năm với hơn 7.500 doanh nghiệp quy mô công nghiệp gắn với xuất khẩu, ngoài ra còn có hàng chục nghìn cơ sở chế biến nông sản nhỏ lẻ, hộ gia đình thực hiện sơ chế, chế biến phục vụ tiêu dùng trong nước.

Ông Trần Công Thắng cho biết ngành công nghiệp chế biến nông sản của Việt Nam phát triển song song với lộ trình tăng trưởng xuất khẩu. Đến nay đã có một số tập đoàn, doanh nghiệp lớn đầu tư chế biến nông sản, chỉ riêng từ năm 2018 đến nay có 30 dự án đầu tư lớn vào chế biến nông sản với tổng vốn trên 20.000 tỷ đồng.

Đặc biệt, một số ngành và sản phẩm như: chế biến hạt điều, lúa gạo, thủy sản…có công nghệ, thiết bị chế biến tương đối hiện đại so với khu vực và thế giới, đáp ứng yêu cầu chất lượng và an toàn thực phẩm các thị trường xuất khẩu khó tính như Mỹ, Nhật Bản, EU...

Mặc dù vậy, xét tổng thể năng lực chế biến nông sản của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu sản xuất nguyên liệu và thị trường tiêu thụ. Công nghệ chế biến nông sản chủ yếu là sơ chế thô, tỷ lệ sản phẩm có giá trị gia tăng cao còn thấp, mới đạt khoảng 15-20%.

Thêm vào đó, chất lượng nguyên liệu và sản phẩm sau chế biến chưa cao, chủng loại sản phẩm chế biến cũng chưa phong phú, đa dạng. Tính đến năm 2018, sản phẩm qua chế biến mới đạt 44% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của cả nước, phần còn lại đều xuất khẩu nguyên liệu thô với giá trị thấp.

Điển hình với ngành càphê, sản lượng càphê chế biến hàng năm là hơn 1,5 triệu tấn, tuy nhiên trong đó chủ yếu là chế biến dạng thô cho ra hạt càphê nhân, còn sản phẩm chế biến sâu hơn như càphê rang xay, càphê hòa tan còn khá khiêm tốn, chỉ chiếm tỷ lệ 12% tổng sản lượng.

Tương tự, với nhóm mặt hàng xuất khẩu mới nổi trong thời gian gần đây như: rau củ, trái cây, cả nước hiện có 150 cơ sở chế biến rau quả quy mô công nghiệp với tổng công suất thiết kế trên 1 triệu tấn sản phẩm/năm nhưng sản lượng sản xuất thực tế hiện nay mới đạt được khoảng 50%.

Còn lại phần lớn cơ sở chế biến, bảo quản rau quả đều có quy mô hộ gia đình với trang thiết bị thô sơ chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Rau, củ, quả hiện chủ yếu được tiêu thụ dưới dạng tươi, tỷ lệ nguyên liệu đưa vào chế biến mới chỉ đạt 5 -10% tổng sản lượng.

Sản xuất nông nghiệp không chỉ có nhiệm vụ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tạo việc làm cho lao động nông thôn mà còn góp phần đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Năm 2018 tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản của Việt Nam đã đạt hơn 40 tỷ USD, năm 2019 dự kiến sẽ đạt khoảng 41,3 tỷ USD.

Còn theo dự báo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng nông sản trên thế giới trong giai đoạn tới tiếp tục tăng lên, đặc biệt là nông sản, thực phẩm qua chế biến.

Chỉ tính riêng tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm rau củ chế biến của thế giới đã đạt 2.200 tỷ USD/năm. Bên cạnh đó, xu hướng tiêu dùng các sản phẩm chế biến sâu sử dụng nguyên liệu, phụ phẩm nông nghiệp phục vụ chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp và sản xuất nhiên liệu sinh học ngày càng tăng.

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, với lợi thế về nguồn nguyên liệu nông nghiệp phong phú và cam kết mở cửa thị trường nông sản từ những Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cánh cửa xuất khẩu nông sản của Việt Nam ngày càng rộng.

Tuy nhiên, hội nhập kinh tế cũng đồng nghĩa với việc nông sản Việt Nam phải cạnh tranh với nông sản các nước khác không chỉ ở thị trường quốc tế mà ngay tại thị trường nội địa.

Cùng với đó, kinh tế càng phát triển thì người tiêu dùng càng đòi hỏi khắt khe hơn về chất lượng, quy trình sản xuất, chế biến nông sản, thực phẩm. Hơn nữa, trình độ chế biến, năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam so với nhiều nước còn hạn chế, nhận thức của nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp về cơ giới hóa chưa cao nên đầu tư cho máy móc sản xuất còn thấp.

Đặc biệt, khâu bảo quản nông sản là vô cùng quan trọng, quyết định đến chất lượng nông sản và sản phẩm sau chế biến nhưng hiện nay hệ thống kho còn thiếu, nhất là kho lạnh. Bên cạnh đó, cơ giới hóa còn đòi hỏi phải có chất lượng hạt giống đồng đều và quy trình chăm sóc tốt để có thể thu hoạch đại trà.

Cùng quan điểm này, đại diện Viện Cây ăn quả miền Nam nhấn manh việc phát triển các kỹ thuật đơn lẻ trong cơ giới hóa và chế biến nông sản rất khó để áp dụng cho sản xuất quy mô lớn trong khi muốn hiệu quả phải được thực hiện đồng bộ theo chuỗi.

Hiện nay công nghệ bảo quản trái cây, rau củ hiện đại nhất là bảo quản lạnh, đòi hỏi phải có kho lạnh ngay tại vùng trồng, phương tiện vận chuyển cũng phải có hệ thống làm lạnh trong khi các vùng trồng trái cây lớn đều chưa có kho lạnh và xe lạnh.

Mặt khác, Việt Nam hiện có rất nhiều loại trái cây nhưng là giống trái cây dành cho nhu cầu ăn tươi, chưa có nhiều giống trái cây phù hợp cho hoạt động chế biến nên vào mùa vụ chính trái cây tươi tiêu thụ không hết đành phải đổ bỏ, trong khi một số nhà máy chế biến không có đủ nguyên liệu đạt chuẩn để hoạt động hết công suất.

Việt Nam mỗi năm đang xuất khẩu 6 -7 triệu tấn gạo nhưng chỉ thu lại 2-3 tỷ USD, bằng một nửa so với các các quốc gia khác xuất khẩu cùng khối lượng vì cách thức tổ chức sản xuất chưa hợp lý hợp lý, chất lượng nông sản không ổn định, tổn thất sau thu hoạch lớn.

Chính vì vậy, muốn cơ giới hóa đồng bộ phải kiên quyết thực hiện được liên kết cánh đồng lớn. Điều này đồng nghĩa phải có giải pháp khuyến khích nông dân dồn điền, đổi thửa, thành lập hợp tác xã tập trung diện tích để sản xuất lớn.

Để thúc đẩy hoạt động chế biến nông sản, cơ quan quản lý cần xây dựng bộ tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật rõ ràng để doanh nghiệp thực hiện đồng bộ, tránh trường hợp mỗi cơ sở chế biến làm một kiểu, sản phẩm nhiều nhưng không thuyết phục được người tiêu dùng và thị trường xuất khẩu.

Bên cạnh đó, đầu tư vào nhà máy chế biến công suất lớn, công nghệ hiện đại cần nguồn vốn rất lớn, thời gian thu hồi chậm nên Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn hợp lý.

Vì vậy, muốn giải quyết bài toán chất lượng, giá trị, đầu ra cho nông sản, cách hiệu quả nhất là kết hợp những nhà đầu tư có vốn với doanh nghiệp có kinh nghiệm trong ngành chế biến và tổ chức sản xuất theo mô hình hợp tác xã, cánh đồng lớn.

Khi đó, nông dân liên kết được bao tiêu sản phẩm, doanh nghiệp có nguồn vốn xây dựng nhà máy, mua sắm thiết bị mở rộng chế biến và đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, có giá trị gia tăng cao. Đặc biệt, Nhà nước đóng vai trò kết nối và điều tiết để công nghiệp chế biến nông sản phát triển đúng định hướng, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu.

Trong bối cảnh ngành nông nghiệp tồn tại nhiều điểm yếu về cạnh tranh và giá trị, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn đang xây dựng khung chiến lược phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến nông sản Việt Nam đến năm 2030 với mục tiêu phát triển cơ giới hóa nông nghiệp đồng bộ cả về cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị và điều kiện đầu tư phù hợp với quy mô, trình độ sản xuất của từng vùng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, giảm tổn thất trong nông nghiệp.

Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản Việt Nam đứng trong top 10 nước hàng đầu thế giới, là trung tâm chế biến sâu và logistics nông sản toàn cầu; trong đó các ngành hàng nông sản chủ lực có trình độ chế biến tiên tiến, hiện đại, đáp ứng tốt các yêu cầu của thị trường tiêu thụ, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và kim ngạch xuất khẩu cho nông sản Việt Nam./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục