Những dấu hỏi từ dự thảo tiêu chuẩn về nước giải khát

Hiện nay, dự thảo TCVN về nước giải khát lại được mang ra đề xuất, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp không khỏi băn khoăn bởi nó dường như là ‘phiên bản trở lại’ của TCVN 5042:1994
Những dấu hỏi từ dự thảo tiêu chuẩn về nước giải khát ảnh 1Hội thảo "Góp ý dự thảo tiêu chuẩn quốc gia về nước giải khát" tại Thành phố Hồ Chí Minh. (Ảnh: CTV)

Bản dự thảo “Tiêu chuẩn Quốc gia về nước giải khát” do Bộ Khoa học và Công nghệ soạn thảo mới đây đã được Viện Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) chính thức tổ chức hội thảo để lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, đơn vị liên quan.

Sơ bộ, các doanh nghiệp, tổ chức vẫn còn nhiều băn khoăn đặt ra liên quan đến nội dung của dự thảo.

“Nước giải khát” hay “đồ uống không cồn”?

Trong hội thảo lấy ý kiến về bản dự thảo tổ chức hôm 11/10 tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực đồ uống đã tỏ ra băn khoăn về một số chi tiết trong dự thảo.

Đầu tiên, yêu cầu tối quan trọng đối với hệ thống pháp luật là phải rõ ràng, thống nhất, dễ hiểu và dễ áp dụng. Nhưng thực tế hiện nay trong lĩnh vực đồ uống nói riêng, các quy định pháp luật đã khá nhiều và chồng chéo.

Ngoài những quy định chung về an toàn vệ sinh thực phẩm, hiện các doanh nghiệp, tổ chức phải tuân thủ quy chuẩn Việt Nam QCVN 6-2:2010/BYT đối với các sản phẩm đồ uống không cồn.

Quy chuẩn này tham chiếu đến các tiêu chuẩn kiểm nghiệm liên quan nằm trong hàng chục các tiêu chuẩn Việt Nam như TCVN 4884-2015, TCVN 6848:2007, TCVN 7924-1:2008…

Đồng thời, ngoài quy chuẩn Việt Nam nêu trên, doanh nghiệp còn phải thực hiện theo tiêu chuẩn TCVN 7041: 2009 với các quy định về kỹ thuật của đồ uống không cồn và quan trọng hơn, Tiêu chuẩn Việt Nam này gần như bao phủ và chồng chéo với Dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam về nước giải khát hiện tại.

Như vậy, doanh nghiệp nên gọi, phân loại, dán nhãn mác sản phẩm như thế nào? Dùng thuật ngữ “nước giải khát” hay “đồ uống không cồn” để chỉ sản phẩm của mình?

Trước đó, cuối năm 1994, TCVN 5042:1994 về nước giải khát đã được ban hành để điều chỉnh các hạng mục cả đồ uống có cồn và không có cồn.

Nhưng tiêu chuẩn này gộp chung tất cả các loại đồ uống vào thành “nước giải khát”, từ đó rất nhiều tiêu chí không phù hợp với tình hình phát triển thực tế của ngành đồ uống và các thông lệ quốc tế, mâu thuẫn với các khái niệm trong các văn bản pháp luật khác và mâu thuẫn với hình thức quản lý hiện hữu, nên đến năm 2008 tiêu chuẩn này đã bị bãi bỏ vì không phù hợp.

“Phiên bản cũ”

Hiện nay, dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam về nước giải khát lại được mang ra đề xuất, nhiều chuyên gia và doanh nghiệp không khỏi băn khoăn bởi nó dường như là ‘phiên bản trở lại’ của TCVN 5042:1994 - một tiêu chuẩn đã từng bị loại bỏ vì không phù hợp.

Nhất là trong điều kiện đã có quy định pháp luật, việc xây dựng thêm Tiêu chuẩn Việt Nam có thể gây chồng chéo, thậm chí có điểm mâu thuẫn, khi chúng ta chưa thể thống nhất lại và đơn giản hóa, thì lại tiếp tục đưa thêm vào một văn bản thiếu ăn khớp nữa.

Điều này đã tạo ra nhiều băn khoăn và nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý có liên quan nếu dự thảo được phê duyệt để áp dụng.

[Áp dụng Bộ tiêu chuẩn Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ]

Đối chiếu với TCVN 5042:1994 sẽ thấy, dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam về nước giải khát mới này không có nhiều khác biệt. Những điểm được thêm vào thì hầu hết đã được qui định trong các văn bản pháp luật hiện hữu. Mà những điểm giống nhau, thì lại mắc hết những sai lầm của TCVN 5042:1994.

Đầu tiên là tên gọi. Sử dụng khái niệm phải thống nhất với các văn bản khác. TCVN 5042:1994 bị xóa bỏ một phần vì khái niệm không thống nhất, ở đó sử dụng khái niệm ‘nước giải khát’ để điều chỉnh cả đồ uống có cồn và không có cồn.

Đáng tiếc là dự thảo mới này lại tiếp tục mắc sai lầm y như vậy, cũng vẫn gọi là ‘nước giải khát.’ Hơn thế nữa, phạm vi điều chỉnh đối với ‘nước giải khát’ lại chỉ là đồ uống không có cồn. Bản thân khái niệm trong dự thảo không những đã không được gọi đúng tên, mà còn khác biệt với các khái niệm trong QCVN 6-2:2010 và TCVN 7041: 2009 nữa.

Hay với chỉ tiêu ‘Tổng số vi sinh vật hiếu khí,’ cũng giống như TCVN 5042:1994 đã bị xóa bỏ, dự thảo ''Tiêu chuẩn Việt Nam về nước giải khát'' tiếp tục điều chỉnh cùng nội dung chỉ tiêu đó nhưng tiêu chí lại khác biệt với TCVN 4884-2015 (đây cũng là tiêu chuẩn ISO 4883-1-2013) mới được ban hành mà QCVN 6-2:2010/BYT tham chiếu tới. QCVN quy định mức tối đa tổng số vi sinh vật hiếu khí là 100 CFU/ml sản phẩm. Còn dự thảo lần này đặt ra giới hạn từ 100 đến 1000 CFU.

Vậy việc thay đổi tiêu chuẩn cho cùng một loại tiêu chí có thực sự hợp lý hay không, có khiến hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn ‘dẫm chân’ lên nhau hay không?.

Nếu như năm 2008, những khác biệt trong các tiêu chuẩn Việt Nam áp dụng cho cùng một loại tiêu chí gây ra khó khăn cho doanh nghiệp và người thực thi pháp luật khiến cuối cùng TCVN 5042:1994 bị bỏ bớt, thì thật khó hiểu lý do vì sao sự khác biệt này nay lại được đưa trở lại?

Tương tự, tiêu chuẩn khác như vi khuẩn coliform, salmonella… cũng có sự khác biệt, trong khi quy chuẩn Việt Nam vẫn đang tham chiếu các tiêu chuẩn Việt Nam về phương pháp kiểm nghiệm. Nếu dự thảo mới này ban hành, quy chuẩn Việt Nam liệu có chỉnh sửa theo không? Nếu quy chuẩn Việt Nam không chỉnh sửa theo, như vậy tình trạng chồng chéo lại tiếp tục diễn ra, doanh nghiệp, các cơ quan quản lý sẽ phải ứng xử thế nào trước các khác biệt?

Dự thảo Tiêu chuẩn Việt Nam về nước giải khát nếu được xây dựng trên cơ sở các bộ ban ngành thống nhất các điểm khác biệt, phù hợp với tình hình thực tế sẽ là một tín hiệu vô cùng tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp trong ngành đồ uống. Nhưng rất tiếc, bản dự thảo lại lặp lại một tiêu chuẩn lỗi thời, cái mới thì chồng chéo mà cái cũ thì lạc hậu, rất khó để được đồng tình./.

(Vietnam+)

Tin cùng chuyên mục