Trong tiếntrình đổi mới của đất nước, việc hợp tác quốc tế trong điều tra, nghiêncứu tài nguyên, môi trường để phát triển kinh tế biển là một trongnhững hướng đầy triển vọng mà Việt Nam đang hướng tới.
Tăng cường lợi ích qua hợp tác quốc tế
Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa, rất nhiều dự án hợptác của Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh thổ được hưởng lợitừ biển cùng nhiều tổ chức và công ty quốc tế đã được tiến hành.
Các dựán này chủ yếu tập trung điều tra, khảo sát một số lĩnh vực bao gồm cáchệ sinh thái biển, quản lý tổng hợp vùng bờ biển, bảo tồn biển và bảovệ nguồn lợi thủy sản, thủy sản, nghề cá, bảo vệ môi trường biển, khuvực tiền châu thổ, chống suy thoái biển, chính sách biển và xóa đói giảmnghèo.
Những hoạt động hợp tác quốc tếnày bước đầu đã có những kết quả đáng khích lệ, cung cấp các thông tinquan trọng cho phép hiểu được điều kiện tự nhiên biển, tình hình nguồnlợi biển, thông lệ quốc tế về biển, tăng cường năng lực trong điều tranghiên cứu biển.
Thông qua các hoạt động này, nhiều Bản ghi nhớ hợp tácgiữa các Cơ quan nghiên cứu, phát triển biển và hải đảo của Việt Nam đãđược ký kết với các Cơ quan, tổ chức nước ngoài hoạt động trong lĩnh vựcnày nhằm phục vụ những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu như xây dựng chínhsách pháp luật, luật pháp về quản lý tổng hợp và thống nhất về biển vàhải đảo, điều tra thăm dò tài nguyên biển…
Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường), đơnvị đầu ngành trong lĩnh vực này đã ký kết một số Bản ghi nhớ hợp tác vớicác đối tác quốc tế quan trọng, đó là Bản ghi nhớ hợp tác (MOU) về Khoahọc và Công nghệ biển và vùng bờ giai đoạn 2010- 2015 với Cơ quan khíquyển và Đại dương Hoa Kỳ (NOAA); Bản ghi nhớ hợp tác về kiểm soát ônhiễm biển, bao gồm ứng phó sự cố tràn dầu trên biển với Cơ quan Bảo vệBờ biển Hàn Quốc (COAST GUARDS); Biên bản hợp tác ký tắt với Tổng cụcĐại dương Trung Quốc (SOA); Biên bản ghi nhớ hợp tác với Viện Hải dươnghọc, Phân viện Thái Bình Dương, Viện hàn lâm khoa học Nga (POI- FEB -RAS) về nghiên cứu hải dương học và điều tra địa chất khoáng sản biểnsâu.
Đặc biệt, đối với khu vực ASEAN(Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á), bao gồm Việt Nam, hợp tác quốc tếtrong điều tra nghiên cứu tài nguyên và môi trường biển luôn là nội dungquan trọng và hoạt động xuyên suốt trong nhiều năm qua và cả trongnhững năm tới.
Khu vực ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á) bao gồm 11nước thành viên thì có tới 9 quốc gia có môi trường và vùng biển có chủquyền rộng lớn với tổng số đường biển dài tới 147km. Khu vực là trungtâm của các rặng san hô, rừng ngập mặn và thảm cỏ biển, đóng vai tròquan trọng trong việc cung cấp dinh dưỡng để nuôi sống nhiều loài sinhvật biển.
Giáo sư, tiến sỹ Bùi Công Quế (Viện Khoahọc và Công nghệ Việt Nam) cho biết, theo kinh nghiệm của nhiều quốcgia có vùng biển rộng lớn, việc điều tra khảo sát và bảo vệ tài nguyênmôi trường biển ở các vùng biển liên thông, tiếp giáp và gắn bó liênhoàn với nhau là công việc phức tạp, nhạy cảm và không thể thiếu sự hợptác phối hợp của các nước liên quan.
Bởivậy, Việt Nam đã phối hợp với các quốc gia trong khối thực hiện liêntiếp nhiều chương trình, dự án hợp tác có quy mô và quan trọng.
Điểnhình là Dự án biển Đông của UNEP/ GEF với tên gọi: “ Xu thế sụt giảmcủa môi trường ở Biển Đông và Vịnh Thái Lan” với sự tham gia của hơn 400cơ quan tổ chức của một số nước bao quanh Biển Đông cùng tham gia thựchiện gồm: Campuchia, Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và ViệtNam; Dự án PEMSEA có tên là “ Các đối tác trong quản lý môi trường cácvùng biển Đông Á” do Quỹ Môi trường toàn cầu tài trợ và do Chương trìnhphát triển của Liên hợp quốc chủ trì thực hiện.
Dự án xây dựng mộtChương trình khu vực về phòng chống ô nhiễm môi trường biển ở các vùngbiển Đông Á. 11 nước đã tham gia Chương trình này trong đó có Việt Nam,Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan…
Triển vọng khả quan
Năm 2007, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 đãthông qua Nghị quyết về ban hành Chiến lược Biển Việt Nam đến năm2020. Trong đó xác định mục tiêu đến năm 2020 là “ phấn đấu đưa nước tatrở thành một quốc gia mạnh về biển và làm giàu từ biển.”
Để đạt đượcmục tiêu này, Chiến lược đã đề ra những phương hướng, nhiệm vụ và giảipháp chủ yếu để tiến ra biển xa và hội nhập quốc tế trên biển và đạidương. Một trong những giải pháp được đề ra là tăng cường hợp tác quốctế về biển. Đây là điều kiện thuận lợi đối với hợp tác quốc tế trongđiều tra, nghiên cứu tài nguyên và môi trường biển.
Theo tiến sỹ Đặng Huy Rằm (Vụ hợp tác quốc tế và Khoa học, Côngnghệ - Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam), hợp tác quốc tế trong điềutra, nghiên cứu tài nguyên và môi trường biển trong thời gian sắp tớicần được định hướng và tập trung vào một số lĩnh vực cụ thể như xâydựng và hoàn thiện các văn bản pháp quy về điều tra nghiên cứu tàinguyên và môi trường biển; Đào tạo, nâng cao trình độ, năng lực và tiềmlực khoa học công nghệ phục vụ quản lý Nhà nước tổng hợp và thống nhấtvề biển và hải đảo theo các hướng gửi cán bộ đào tạo ở các quốc gia cốvùng biển phát triển, mời các chuyên gia ngoài nước có chuyên môn sâuliên quan tham gia giảng dạy và trao đổi thông tin khoa học;
Thực hiệncó hiệu quả các chương trình, dự án quan trọng về điều tra địa chất,khoáng sản biển sâu, phòng tránh thiên tai và ô nhiễm môi trường biển,đặc biệt là trong việc thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế về ứngphó, khắc phục sự cố tràn dầu và tác động của biến đổi khí hậu đối vớivùng biển và ven biển.
Đối với ViệtNam, để đạt được hiệu quả cao trong các Chương trình hợp tác quốc tế,cần có sự chuẩn bị cần thiết, trước hết về lực lượng khoa học, cơ sở kỹthuật tối thiểu cũng như một số tổ chức đại diện có danh nghĩa quốc giađể tham gia hợp tác. Thêm vào đó, sự kết hợp nhiệm vụ nghiên cứu trongcác Chương trình, Đề án cấp Nhà nước, cấp ngành sẽ tạo điều kiện thuậnlợi cho việc chuẩn bị điều kiện tham gia hợp tác.
Hợp tác quốc tế trong điều tra nghiên cứu tài nguyên và môitrường biển cần chủ động đối với các Chương trình, Đề án nhằm đáp ứngyêu cầu thực tiễn, sự phát triển của khoa học biển Việt Nam phù hợp vớitình hình của khu vực. Sự chủ động nói trên vừa đóng góp cho hoạt độnghợp tác quốc tế trong khu vực, đồng thời nâng cao vị thế của Việt Namtrong cộng đồng khoa học biển trên khu vực và thế giới./.